Để cuộc sống nơi đây được an lành, Đan viện Thiên An (ĐVTA) cần đối thoại với người dân và chính quyền địa phương một cách thiện ý và cởi mở. Thiên An là một vùng đồi núi nằm ở phía Nam TP. Huế, thuộc xã Thủy Bằng, TX. Hương Thủy. Quần sơn này gồm 140 ngọn
- Năm 1076 nhà Quốc Tử Giám được xây dựng lên trong khu văn miếu. - Được coi là trường đại học đầu tiên của Đại Việt, lúc đầu ở đây chỉ dành cho con vua học, sau đó nhà Lý mở rộng cho con em quan lại và những người giỏi trong nước. Kiến trúc và điêu khắc thời Lý phát triển NTN? Năm 1070 nhà Lý xây dựng văn miếu, đến 1975 khoa thi đầu tiên được mở.
Minh chứng cho văn hóa hiếu học của người việt - Văn Miếu Quốc Tử Giám 27/03/2021 27/03/2021 2,095 10 phút đọc Kiến Trúc - Mỹ Thuật
Tử. Nổi tiếng với tài hùng biện và trí tuệ tinh anh, cụ Chu được mời về giảng dạy trong Học Viện Hoàng Gia - nay là Văn Miếu Quốc Tử Giám - nơi đặt bệ thờ vinh danh và ghi nhớ những cống hiến của Cụ đối với đất nước. Để ghi danh và tôn vinh
Ngày 17/10, công an tỉnh Trà Vinh đã thực hiện lệnh khởi tố bị can, bắt tạm giam 4 tháng đối với ông Diệp Văn Sơn, nguyên Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Trà Vinh và ông Lê Văn Hồng Anh, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Trà Vinh để điều tra về hành vi "cố ý
Theo đó, Thủ tướng phê duyệt phạm vi lập quy hoạch dự kiến được xác định trên khu vực bảo vệ I của di tích, diện tích 5,433 ha, bao gồm 03 khu vực: Khu Nội vụ, Vườn Giám và Hồ Văn nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật của Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
a. Giáo dục: - Năm 1070, nhà Lý xây dựng Văn Miếu để làm nơi dạy học các hoàng tử. -1075: mở khoa thi đầu tiên tuyển chọn quan lại. - 1076: Xây dựng Quốc Tử Giám. - Đạo Phật phát triển rộng khắp trong nhân dân. b. Văn hóa: - Đời sống văn hóa dân gian phong phú.
BPQHbT. Thứ tư, 24/05/2023 Giáo dục 2884 Lượt xem Nhà Lý xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để dạy học cho con vua, quan, tổ chức các kì thi, năm 1070, nhà Lý xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho con vua, năm 1076, Quốc Tử Giám được mở cho con em qúy tộc đến học và tổ chức một số kì hỏiNhà Lý xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám để?A. Là nơi gặp gỡ của quan lạiB. Vui chơi giải tríC. Dạy học cho con vua, quan, tổ chức các kì thiD. Đón tiếp sứ thần nước ngoàiĐáp án đúng Lý xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám để dạy học cho con vua, quan, tổ chức các kì thi, năm 1070, nhà Lý xây dựng văn miếu thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho con vua, năm 1076, Quốc Tử Giám được mở cho con em quý tộc đến học và tổ chức một số kì thích lý do chọn đáp án CNăm 1005, Lê Hoàn mất Lê Long Đĩnh lên ngôi. Năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời Lý Công Uẩn được tôn lên làm vua, nhà Lý được thành 1010, Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là Thuận Thiên, dời đô về Đại La đổi tên thành là Thăng Lý, Thăng Long vừa là kinh đô của nước Đại Việt cường thịnh, vừa là thành thị có quy mô lớn trong khu vực và thế 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt, thiết lập chính quyền quân chủ chuyên đây, nhà Lý cũng đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn cả về văn hóa, giáo dục. Văn học chữ Hán bước đầu phát triển. Đạo Phật được tôn sùng, xây dựng nhiều chùa tháp, cho dịch kinh Phật, soạn sách Phật,..Nghệ thuật biểu diễn dân gian phát triển hát chèo, múa rối nước,.. Các trò chơi dấn gian được ưu chuộng, các lễ hội dân gian phổ trúc phát triển, nhiều công trình quy mô lớn và độc đáo được xây dựng Hoàng thành Thăng Long, tháp Chương Sơn Nam Định,.. Điêu khắc trình độ tinh vi, thanh thoát, hoa văn hình rồng là hình tượng nghệ thuật độc đáo, phổ biến thời Lý chính sách khuyến học được thể hiện rõ nét nhất là sự kiện xây dựng Văn Miếu ở kinh thành Thăng Long vào năm 1070 làm nơi thờ các vị Tiên thánh, Tiên hiền Nho học và cho Hoàng Thái tử đến học. Năm 1075 vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi tuyển “Minh kinh bác học” đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Một năm sau ông lại cho mở Quốc Tử Giám dạy học cho con em quý tộc. Sau này dưới triều Trần, Quốc Tử Giám mở rộng dần quy mô, thu nạp cả những học trò ưu tú bình dân vào học tập. Quốc từ giám là trường học đầu tiên của Đại thể nói, vào thời Lý, giáo dục, khoa cử được quan tâm song chế độ thi cử chưa có nề nếp, quy củ, khi nhà nước có nhu cầu mới mở khoa ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAUBÀI VIẾT MỚI NHẤT Việt Nam có 63 hay 64 tỉnh thành?Việt Nam có 63 hay 64 tỉnh thành? Để có câu trả lời chính xác cho câu hỏi này, Quý độc giả đừng bỏ qua những chia sẻ của chúng tôi trong bài viết... Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ 2?Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc chiến tranh quy mô toàn cầu diễn ra từ năm 1939 đến năm 1945, nó bắt đầu khi Đức Quốc xã, do Adolf Hitler lãnh đạo, tấn công Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939. Một số nước khác như Anh, Pháp và Liên Xô đã gia nhập sau đó khi bị tấn... Đặc điểm của bào tử là là gì?Bào tử có khả năng phân chia và phát triển thành các tế bào khác nhau của cơ thể, bao gồm tế bào da, tế bào cơ, tế bào tủy xương, tế bào thần kinh, và nhiều tế bào... Xem thêm
Lịch sử Kiến trúc Hồ Văn Văn Miếu Môn Đại Trung Môn Khuê Văn Các Giếng Thiên Quang, bia Tiến sĩ Đại Thành Môn, khu điện thờ Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám Nhà Tiền đường, Hậu đường Những tu bổ sau năm 1954 Đánh giá Ý nghĩa Xem thêm Ghi chú Tham khảo Tài liệu Sơ đồ kiến trúc quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám ngày nayVăn Miếu - Quốc Tử Giám chữ Hán文廟 - 國子監 là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên. Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là cổng Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành và cổng Thái Học. Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đây từng là nơi các sĩ tử đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi bằng cách vuốt đầu rùa tại các bia tiến sĩ, tuy nhiên, ngày nay, để bảo tồn di tích, một hàng rào được thiết lập và các sĩ tử không còn làm nghi thức cầu may như trước này là nơi trên tờ tiền polymer VND của Việt Nam Lịch sửSơ đồ kiến trúc trước đây của quần thể Văn Miếu - Quốc Tử Giám chưa có Khuê Văn CácVăn Miếu được xây dựng từ năm 1070 tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1, chép "Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.".[a] Như vậy Văn miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 tức là năm 8 tuổi lên ngôi trở thành vua Lý Nhân TôngNăm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý nên gọi tên là Quốc Tử, người học đầu tiên là hoàng tử Lý Càn Đức. Việt sử thông giám cương mục. Nhà xuất bản. Văn sử địa. 1957 chép "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 tháng 4... lập nhà Quốc Tử Giám; tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó". Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Nguyên Phong thứ 3 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ "Quý Sửu năm thứ ba1253... Tháng 6 lập Quốc Học viện tô tượng Khổng Tử,Chu công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, ngũ kinh" ĐVSKTT. Lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng thư kiêm chức Đề điệu Quốc Tử viện để trông nom công việc học tập tại Quốc Tử Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp hiệu trưởng và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được. Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông 1460 - 1497 đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải bia đã dựng thì vĩnh tồn, không hư hỏng, không mất mát. Từng thời có những đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 Thịnh Đức năm thứ nhất, năm 1717 Vĩnh Thịnh năm thứ 13.Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà công trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám - cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu - Hà Nội. Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông. Như vậy vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần được sửa sang chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Còn Quốc Tử Giám thì đổi thành học đường của phủ Hoài Đức và sau đó tại khu vực này xây đền Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng năm 1947, thực dân Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây dựng với diện tích 1530 m² trên tổng diện tích 6150 m² gồm các công trình kiến trúc chính là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử Giám. Kiến trúc Văn Miếu-Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long, xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc làng Thịnh Hào, tổng Yên Hạ, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà Đông. Nay thuộc thành phố Hà Nội. Bốn mặt đều là phố, cổng chính là phố Quốc Tử Giám phía Nam, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m² bao gồm hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám, trường học cao cấp đầu tiên của Việt Nam. Nhà Thái học sinh đời Lý - Trần quy mô thế nào, hiện chưa khảo được, vì các tư liệu lịch sử không thấy ghi lại. Thời thuộc Minh, nhiều di tích lịch sử văn hoá bị đốt hoặc đưa về Yên Kinh, Bắc Kinh, nhưng Văn Miếu vẫn được người Minh tôn trọng. Năm Giáp Ngọ 1414 Hoàng Phúc xin với vua nhà Minh cho lập Văn Miếu ở các châu, huyện trong cả Năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14 1483 Lê Thánh Tông, đã thực hiện một đợt đại trùng tu, được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau Tháng Giêng, mùa xuân sửa nhà Thái học...Đằng trước nhà Thái học dựng Văn Miếu. Khu cũ của Văn Miếu có điện Đại Thành để thờ Tiên Thánh, Đông vũ và Tây vũ chia ra thờ các Tiên hiền, Tiên nho; điện Canh Phục để làm nơi túc yết, Một kho để chứa đồ tế khí và một phòng để làm nhà bếp; đằng sau nhà Thái học, dựng cửa Thái học, nhà Minh luân. Giảng đường phía đông và giảng đường phía tây thì để làm chỗ giảng dạy các học sinh. Lại đặt thêm kho Bí thư để chứa ván gỗ khắc thành sách; bên đông bên tây nhà Thái học làm nhà cho học sinh trong ba xá, mỗi bên ba dãy, mỗi dãy 25 gian để làm chỗ nghỉ ngơi của học sinh Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào tháng 11 niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 3 1511 vua Lê Tương Dực Sai Nguyễn Văn Lang sửa lại điện Sùng Nho ở Quốc Tử Giám và 2 giải vũ, 6 nhà Minh Luân, phòng bếp, phòng kho, cùng làm mới 2 nhà bia bên đông bên tây, mỗi gian tả hữu đều để 1 tấm Văn Miếu - Quốc Tử Giám nhà Lê đã được Lê Quý Đôn miêu tả trong Kiến văn tiểu lục sách viết năm 1777 thì Văn Miếu; Cửa Đại Thành Nhà 3 gian 2 chái, lợp bằng ngói đồng ngói ống, Đông Vũ và Tây Vũ 2 dãy đều 7 gian, đằng sau cửa nhỏ 1 gian, điện canh phục 1 gian 2 chái, nhà bếp 2 gian, kho tế khí 3 gian 2 chái, cửa Thái học 3 gian, có tường ngang lợp bằng ngói đồng ngói ống, nhà bia phía đông và tây đều 12 gian, kho để ván khắc sách 4 gian, ngoại nghi môn 1 gian, xung quanh đắp tường, cửa hành mã ngoài tường ngang 3 gian, nhà Minh Luân 3 gian 2 chái, Cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian, có tường ngang. nhà giảng dạy ở phía đông và phía tây 2 dãy, mỗi dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá ở phía đông và phía tây đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người11 . Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ đây là sản phẩm của nhà Hậu Lê Hiện nay quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám được chia làm ba khu vực chính 1 là Văn hồ, 2 vườn Giám và 3 là khu nội tự Văn Miếu - Quốc Tử Giám đây là khu chủ thể, bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Hồ VănHồ Văn hay hồ Giám phía trước cổng vào Văn nam, trước mặt Văn Miếu là hồ Văn hay hồ Minh Đường, dân gian thường gọi là hồ Giám. Chính quyền thành phố Hà Nội đã cố gắng giải tỏa, nhưng hiện nay diện tích cũng chỉ còn được 12297 m², giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò dựng Phán Thủy đường là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa. Theo ý đồ kiến trúc, đây vốn là cái "tiểu minh đường" của Văn Miếu, là một bộ phận khăng khít của toàn bộ công trình kiến trúc chung. Năm 1863, trong dịp sửa nhà bia Văn Miếu, Văn Hồ đã được một lần tu sửa. Sự việc này còn ghi lại rõ ràng trên tấm bia đá dựng ở gò giữa hồ Trước miếu có hồ lớn, trong hồ có gò Kim Châu, vào khoảng niên hiệu Cảnh Trị 1668-1671, Tham tụng họ Phạm Phạm Công Trứ làm 10 bài thơ vịnh Phán thủy để ghi lại cảnh đẹp... Mùa thu năm Quý Hợi niên hiệu Tự Đức 1863 tôi[b] cùng Cao đài Đặng Lương Phủ Đặng Tá dựng đình bia Tiến sĩ và sửa sang khu hồ... Mùa thu năm Ất Sửu 1865, Đặng sứ quân lại xuất tiền nhà xây một đình trên gò Kim Châu. Đình làm xong gọi là Văn hồ đình.... .Ngày 12 tháng 2 năm 1998, trong khi nạo vét cải tạo hồ Văn đã tìm thấy tấm bia Hoàn Văn hồ bi, soạn năm Bảo Đại thứ 17 1942, do cử nhân khoa Quý Mão Hoàng Huân Trung[c] soạn. Điều đặc biệt là mặt sau của bia khắc bản dịch chữ Hán ra chữ Quốc ngữ do đốc học Trần Trọng Kim và Nguyễn Quang Oánh dịch. Cho biết hồ này và cả giải đất chạy suốt chiều dài mé tây của Văn Miếu đều thuộc quần thể khu vực Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 20 do phân cách địa giới hành chính, khu vực Văn Miếu thuộc đất tỉnh Hà Đông. Khi đất Văn Miếu - Quốc Tử Giám trao lại cho tỉnh Hà Nội thì bỏ sót lại khu hồ Văn, vì thế năm 1939 các văn thân nho sĩ tỉnh Hà Nội đệ đơn trình Thị trưởng Hà Nội xin Công sứ toàn quyền Bắc Kỳ trả lại hồ Văn vào địa phận Văn Miếu, văn bia có đoạn viết Hồ này ở ngoài tường cửa thứ ba Văn Miếu tên là hồ Minh Đường hay là Văn hồ. Hồ rộng 1 vạn chín trăm thước vuông tây, trong hồ có gò tròn tên gọi Kim Châu rộng hai trăm thước vuông tâyMột hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, một gò đất nổi giữa hồ trên có một kiến trúc nhỏ đẹp lẩn dưới cành lá sum suê, cảnh này mở đầu cho một khu kiến trúc sẽ trở thành một tấm gương soi, nhân đôi cảnh trí, có tác dụng gây cho khách tham quan cảm giác mát mẻ dịu dàng ngay từ khi mới đặt chân vào khu kiến trúc.[d] Khu nội tự Văn Miếu - Quốc Tử Giám tôn nghiêm, được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ và được chia làm 5 lớp không gian khác nhau, mỗi lớp được giới hạn bởi các tường gạch và có các cửa thông nhau một cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên với các kiến trúc chủ thể là cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, Khuê Văn các, cổng Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và kết thúc là khu Thái Học. Trước thềm đại lễ 1000 năm Thăng Long, năm 2010, Văn Miếu Quốc Tử Giám đã tiến hành tu sửa, tôn tạo toàn bộ di tích. Đặc biệt, trước thực trạng hồ Văn bị xâm lấn nghiêm trọng và chưa phát huy được giá trị văn hóa, lịch sử vốn có, Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu Quốc Tử Giám đã được Thành phố Hà Nội và Sở văn hóa thể thao và du lịch chấp thuận chủ trương lập đề án tiến hành dự án tôn tạo gò Kim Châu nhằm trả lại ý nghĩa vốn có của Hồ Văn - nơi vịnh thơ, viết văn của các nho sĩ thời xưa. Ý nghĩa “xin chữ - cho chữ” Đã thành truyền thống, cứ chờ đến năm hết, tết đến, xuân sang trên khắp phố phường và những vùng quê văn vật khắp mọi miền quê Việt Nam, nhiều những ông Đồ hay chữ, bày nghiên bút, giấy bản nhuộm điều, niềm nở đón người qua đường ghé xuống cầu xin con chữ. Người cho chữ là ông Đồ túc nho và người xin chữ thường là những chủ nhà, nho sinh cầu mong những tin mừng và vận hội mới trong cuộc đời và đặc biệt là những nhà có người theo học, mong được con chữ của Thánh hiền, giáng ứng cho may mắn trong học hành thi cử và cuộc sống. Khi xin được câu đối hay con chữ linh thiêng như ý, đem về nhà treo vào nơi trang trọng nhất, linh ứng nhất, dễ ngắm nhìn, chiêm nghiệm. Điều này đã trở thành nét đẹp trong văn hóa học của các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam ta từ nhiều thế kỷ nay, ngày càng được nối tiếp, thừa kế và phát huy đến cao độ. Hội chữ xuân Tại các thành phố lớn trong cả nước, đều có chọn những mạch đất Thánh hiền ngự trị để giành cho người cho chữ và người xin chữ, Hồ Văn - Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội được coi là mạch đất linh thiêng nhất của hoạt động này. Sau lễ đưa tiễn đưa ông Táo về Trời 23 tháng Chạp là thời điểm khai trương “Hội chữ Xuân” - Hội chính của việc “cho chữ- xin chữ” cho giao thừa, năm mới đã được thực hiện để tiễn đưa năm cũ, nghênh đón năm mới. Theo truyền thống dân tộc, lễ đón xuân sang đối với những người con hiếu thảo và học trò hiền là tôn vinh ba bậc cha-mẹ-thầy, trong ba ngày Tết thì mùng Một tết Cha, mùng Hai tết Mẹ, mùng Ba tết Thầy. Tục xin chữ - cho chữ sẽ sôi động hơn từ sau ngày lễ thầy. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay với bộn bề áp lực, sự trở lại một cách mãnh liệt của tục xin chữ - cho chữ, như làm dấy lên một trào lưu mới của học hành - thi cử. Ai cũng mong muốn có được nhiều con chữ hơn để thuận buồm, xuôi gió lập nghiệp khi vào đời nên ngày nay bất cứ khi nào trong cả năm, người dân, học sinh, sinh viên và du khách… mong muốn nhận được linh khí của mạch đất thiêng họ đều đến Hồ Văn-Văn Miếu để xin chữ như một nét văn hóa tâm năm 2018 Trung tâm Hoạt động VHKH Văn Miếu Quốc Tử Giám phối hợp với Công ty TNHH Longlink Việt Nam trong việc phát triển điểm đến Hồ Văn nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng cường các hoạt động văn hóa kết nối với vườn Giám và khu nội tự. Hội Chữ Xuân Mậu Tuất 2018, được đánh giá là hội chữ thành công nhất từ trước tới nay với số lượng khách tăng gấp đối năm 2017. Khác với không gian đơn sơ của những hội chữ xuân trước đó, các gian cho chữ của ông đồ được thiết kế bằng tre lợp lá cọ và nhà gỗ cổ lợp mái vảy sắp đặt theo từng cụm. Hội chữ Xuân tái hiện quang cảnh trường thi với nhà thập đạo, chòi gác thi, lều chõng sĩ tử. Không gian này giúp cho khách tham quan đến với hội chữ không chỉ để xin và cho chữ, mà còn được trải nghiệm nét xưa, giá trị truyền thống của ông cha trong ngày Tết cổ truyền. Các hoạt động khác tại Hồ Văn Sau Hội chữ xuân,Trung tâm Văn Miếu Quốc tử Giám tiếp tục triển khai các hoạt động hè cho thiếu nhi, hoạt động gắn kết gia đình vào các cuối tuần để định vị Hồ Văn trở thành điểm đến sinh hoạt văn hóa thường xuyên cho cư dân thủ đô cũng như du khách với không gian “làng trong phố thị”. Sự góp mặt của làng nghề thủ công với các mặt hàng truyền thống đa dạng gắn với ý nghĩa phát triển của văn Miếu cũng như làng nghề, phố nghề tại Hà Nội xưa như quy trình làm giấy dó, thư pháp, tranh dân gian, tơ lụa, sơn mài, khảm trai, mây tre đan nghệ thuật, gốm sứ, hoa, cây cảnh, các trò chơi dân gian, biểu diễn âm nhạc truyền thống, ẩm thực dân gian…Các hoạt động trải nghiệm văn hóa dân gian được nhiều du khách cũng như các gia đình hứng thú cho trẻ tham gia như Làm giấy dó & sáng tác giấy dó nghệ thuật; Tô vẽ tranh Đông Hồ trên giấy dó; Học viết thư pháp trên giấy dó; Làm và vẽ diều; Vuốt nặn & vẽ trên gốm; Làm chuồn chuồn tre; Vẽ nón/vẽ mẹt nghệ thuật; Nhồi bông/tô vẽ con giống vải… Điều này giúp cho Hồ Văn trở thành điểm đến văn hóa quen thuộc hơn với người dân thủ đô và hấp dẫn hơn nhiều đối với khách tham quan. Văn Miếu Môn Văn miếu môn, cổng dẫn vào khu thứ nhấtPhía trước Văn Miếu môn là tứ trụ nghi môn và hai tấm bia Hạ Mã 下馬 hai bên đó là mốc ranh giới chiều ngang phía trước mặt cổng. Xưa kia dù công hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm bia Hạ mã bên kia mới lại được lên xe lên ngựa. Thế đủ biết Văn Miếu có vị trí tôn nghiêm tới chừng nào. Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao hơn trên có hình hai con nghê chầu vào. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là vật linh thiêng có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ ngoài đắp nổi bốn con chim phượng xoè cánh chắp đuôi vào nhau. Tứ trụ có đôi câu đối chữ HánĐông, tây, nam, bắc do tư đạoCông, khanh, phu sĩ, xuất thử đồTạm dịch là Đông, tây, nam, bắc cùng đạo này đạo NhoCông, khanh, phu sĩ xuất thân từ đường nàyVăn Miếu môn tức là cổng tam quan phía ngoài. Cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Tầng trên có ba chữ 文廟門 Văn miếu môn. Kiểu dáng kiến trúc Văn Miếu môn nhiều nét độc đáo rất đáng lưu ý trong khi nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam. Nhìn bên ngoài tam quan là 3 kiến trúc riêng biệt. Cửa chính giữa thực chất xây 2 tầng. Mặt bằng hình vuông. Tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới. Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 3, vua Khải Định bắc tuần có đến chiêm bái Văn Miếu Hà Nội và làm hai bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán, rồi phán cho tỉnh thần Hà Đông khắc vào bia dựng trên gác tam quan. rất tiếc bia hiện nay không còn, chỉ còn lại bệ bia, hai mặt bệ là hình hổ phù rất đẹp Nguyên văn hai bài thơ như sau Bài thứ nhất Hóa thành nam quốc ái văn hoa,Thánh đạo chân truyền quán bách gia,Tằng vi Bắc phương danh giáo địa,Nghi hồ miếu mạo vĩnh nguy dịch làGiáo hoá lan tràn khắp nước ta,Đạo Thánh đứng đầu cả bách gia,Nghe nói Bắc phương văn vật thịnh,Thảo nào Văn Miếu vẫn nguy nga. Bài thứ hai Thời trung văn giáo nhập Viêm đô,Bách thế tôn sùng đệ nhất Nho,Thử đặc Lý triều lưu cổ kỳ tự hữu hảo quy môTạm dịch làThời trung đạo ấy tới Viêm đô,Trăm thủa đề cao nhất đạo Nho,Triều Lý vẫn còn lưu dấu cũ,Kinh thành riêng để một quy trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong là đôi rồng đá thời Nguyễn. Hai mặt cổng tam quan Phía ngoài có hai câu đối nề không rõ niên đại Câu đối thứ nhất Chữ Hán大 國 不 易 教 不 變 俗 且 尊 崇 之 亦 信 斯 文 原 有 用吾 儒 要 通 經 要 識 時 無 拘 固 也 尚 思 聖 訓 永 相 敦Phiên âm Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng chi, diệc tín tư văn nguyên hữu tựNgô Nho yếu thông kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thượng tư thánh huấn vĩnh tương dịch nghĩa làNước lớn trong giáo dục, giữ thuần phong, đạo được tôn sùng, tin tưởng tư văn nguyên có Nho phải thông kinh, phải thức thời, chớ nên cố chấp, những lời thánh huấn phải ghi lòng. Câu đối thứ hai Sĩ phu báo đáp vị hà tai! Triều đình tạo tựu chi ân, quốc gia sùng thượng chi ýThế đạo duy trì thử nhi! Lễ nhạc y quan sở tụy, thanh danh văn vật sở dịch nghĩa làSĩ phu có nhiều báo đáp, ơn triều đình đào tạo, ý nhà nước tôn đạo nhờ đó duy trì, chốn lễ nhạc y quan, nơi thanh danh văn vật. Đại Trung MônTừ cổng chính Văn Miếu môn, vào không gian thứ nhất gọi là khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn bên trái có Thành Đức môn, bên phải có Đạt Tài môn. Theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh trước đây hai cổng tả môn và hữu môn ở phía trước và bằng Đại Trung môn, Thánh Đức môn và Đại tài môn ở phía sau. Hiện nay hai bên là không gian cây xanh và thảm cỏ Bức tường ngang nối ba cửa vươn dài ra hai bên tới tận tường vây dọc bên ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Trong khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nằm dài sát theo chiều dọc bên ngoài. Cảnh này gây nên cảm giác tĩnh mịch, thanh nhã của nơi "văn vật sở đô". Cửa Đại Trung môn làm kiểu 3 gian, xây trên nền gạch cao, có mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột hiên trước và sau, ở giữa là hàng cột chống nóc. Gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ sơn then Đại Trung đường thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa Đại Trung, hai con đường nhỏ hơn song song chạy thẳng với con đường trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Hai hồ nước được đào ở vị trí tương tự như hai hồ nước ở khu vực thứ nhất. Việc lặp lại một khu vực chỉ có cây có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn và làm thêm lớp cửa ra vào, được các nhà kiến trúc cho là rất thành công trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc. Khuê Văn Các Khuê Văn Các - Thiên quang tỉnh, nơi giao hoà của đất, trờiKhuê Văn Các nghĩa là "gác vẻ đẹp của sao Khuê" là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao.[e] Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文閣 Khuê Văn Các. Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng. Cả bốn đôi câu đối này đều rất có ý nghĩa. Khuê tinh thiên lãng nhân văn xiển - Bích thuỷ xuân thâm đạo mạch trường. Hy triều phấn sức long văn trị - Kiệt các trân tàng tập đại quan Thành lâm Bắc đẩu hồi nguyên khí - Nguyệt tế thu đàm chiếu cổ tâm. Thánh hiền nhất thống đồ thư phủ - Văn hiến thiên thu lễ nghĩa bang. Tạm dịch nghĩa như sau Sao Khuê trời sáng, văn minh rộng - Sông Bích xuân sâu, mạch đạo dài Triều ta tô điểm nhiều văn trị - Gác đẹp văn hay đón khách xem Bắc Đẩu soi thành nhiều khí tốt - Đầm thu bóng nguyệt sáng lòng xưa Nước lễ nghĩa nghìn năm văn hiến - Phủ đồ thư một mối thánh hiền Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội. Gác nhỏ, kiến trúc giản dị nhưng tao nhã, đặc biệt lại được chọn dựng giữa những cây cổ thụ xanh tốt, cạnh giếng Thiên Quang đầy nước trong in bóng tích theo Kinh dịch những con số lẻ 1, 3, 5, 7, 9 thuộc về dương, biểu hiện sự sinh sôi nảy nở và phát triển, Khuê Văn Các có 8 mái là bát quái, có thêm 1 nóc ở trên là 9, số cửu trù, số cực Theo quan niệm của người xưa, giếng Thiên quang hình vuông tượng trưng cho mặt đất, cửa sổ hình tròn của gác Khuê Văn tượng trưng cho bầu trời, có ý nói nơi đây là nơi tập trung mọi tinh hoa của trời đất, có ý tưởng đề cao trung tâm giáo dục văn hoá Nho học Việt Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Cửa Bi văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Thành Đức bên trái Bi văn có nghĩa là trang sức nên vẻ đẹp. Ý nói văn chương trau chuốt sáng sủa, có sức truyền cảm thuyết phục con người. Cửa Súc văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Đạt Tài bên phải Súc Văn có nghĩa là văn chương hàm súc phong phú, có khả năng nuôi dưỡng vẻ đẹp của tâm hồn. Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở đầu cho khu vực thứ hai, khu vực giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ. Giếng Thiên Quang, bia Tiến sĩXem thêm về nội dung này tại Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng LongToàn cảnh Thiên quang tỉnh nhìn từ gác Khuê Văn, hai bên là hai khu nhà bia, phía cuối hình là Đại thành môn dẫn vào không gian thứ baThiên Quang tỉnh tức "giếng soi ánh sáng bầu trời" còn được gọi là Văn Trì Ao Văn. Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng. Người xưa còn có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ hình con rùa bằng đá xanh dùng để vinh danh và khích lệ những người đỗ đạt. Theo tín ngưỡng Việt Nam, rùa là biểu tượng của sự trường thọ và sự khôn ngoan. Các tấm bia được dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên Quang tại Quốc Tử Giám, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 1442 tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 1779. Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, vậy nếu theo đúng điển lệ triều Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất 1442Những tấm bia này được dựng từ năm 1484 dưới thời Lê Thánh Tông. Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung thảo bài văn cho các bia đầu tiên, trong bài ký viết trên bia tiến sĩ đầu tiên, nói về khoa thi năm 1442 có đoạn viết “ ...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...3 4 ” Các bia tiến sĩ có ghi đầy đủ thông tin về khoa thi, triều vua và triết lý về nền giáo dục đào tạo. Theo tài liệu của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch cho biết "Giá trị và nét độc đáo của 82 bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê - Mạc 1442-1779 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, là những bài văn khắc trên bia. Trên thế giới có rất nhiều nước dựng bia, nhưng duy nhất bia tiến sĩ Văn Miếu có bài ký ghi lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài".5 Không có thống kê chính thức số tiến sĩ được ghi trên các bia tiến sĩ này, các nguồn khác nhau cho biết trong khoảng thời gian đó đã có từ đến tiến sĩ, trong số này có 18 trạng nguyên, 21 bảng nhãn và 33 thám hoa. Tuy nhiên, số lượng 82 bia còn lại có thể không đầy đủ và không ghi hết các tên họ các vị tiến sĩ thời quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long đã làm hư hại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Nông dân trại Văn Chương xin Nguyễn Huệ dựng lại bia đề tên Tiến sĩ trong nhà Giám viết rằngBia Tiến sĩ dựng trong Văn MiếuKhởi từ năm Đại Bảo thứ baXí vào Nhâm Tuất hội khoaThái Tông ngự trị thuộc nhà Hậu LêRồi từ đó lệ về Quốc GiámTrải ba trăm ba mươi tám năm ròngĐến năm thứ 40 niên hiệu Cảnh Hưng vua Hiển TôngLà khoa Kỷ Hợi cuối cùng hết biaTính gồm lại số bia trong GiámCả trước sau là tám mươi baDựng theo thứ tự từng khoaBia kia sáu thước cách xa bia này Nhà bia đủ đông tây 10 nócVuông bốn bề ngang dọc bằng nhauMỗi bề hai chục thước tàuCột cao mười thước có lầu chồng diêmCoi thể thế tôn nghiêm có mộtCửa ra vào then chốt quan phòngBốn quan nhất phẩm giám phongBa cơ, bảy vệ canh trong canh ngoàiBia mới dựng đầy 2 nóc trướcTám nóc sau còn gác lưu khôngNăm năm chờ đợi bảng rồngCác quan bộ Lễ, bộ Công chiếu hànhLời thơ vua Quang Trung ở Văn Miếu - Quốc Tử GiámTháng 4 năm 1976 Viện Khảo cổ học phối hợp với phòng Bảo tồn bảo tàng, sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã khai quật được một con rùa đá đế bia chìm sâu dưới lòng hồ cạnh Khuê Văn Các. Thân bia chưa thấy, song sự việc này đã nâng số bia Tiến sĩ lên con số 83. Những năm thực dân Pháp xâm lược rồi tạm chiếm Hà Nội, 2 vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ cao lút đầu.[f] Hiện nay 2 vườn bia đã được tu sửa lại theo mẫu sửa nhà bia cuối cùng vào niên hiệu Tự Đức năm thứ 16 1863, do Bố chính Hà Nội là Lê Hữu Thanh cùng với thự Hậu quân Đô thống, Tổng đốc Hà Ninh là Tôn Thất Hân và Án sát Hà Nội là Đặng Tá khởi xướng làm 2 nhà bia mỗi nhà 11 gian để che mưa nắng cho các di vật quý giá này. Nội dung được ghi rõ trong 2 tấm bia dựng ở bên trái sân Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám xem phần trích trong mục Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám Đại Thành Môn, khu điện thờQua cửa Đại Thành là vào không gian thứ ba, khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám - Văn Miếu. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian với hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa. Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成門 Đại thành môn theo chiều ngang, đọc từ phải sang trái. Bên phải hai hàng chữ nhỏ dọc khắc Lý Thánh Tông, Thần Vũ nhị niên, Canh Tuất thu, bát nguyệt phụng kiến có nghĩa là "Tháng 8 mùa thu năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2 đời Lý Thánh Tông vâng sắc xây dựng".[g] Bên trái một hàng chữ dọc khắc Đồng Kháng tam niên, Mậu Tý trọng đông đại tu có nghĩa là "Tháng 11 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 3[h] đại tu". Bức hoành sơn thiếp giản dị, là sản phẩm của năm 1888, song nó là minh chứng cho một lần tu sửa lớn vào thời Đồng Khánh nhà Nguyễn, và cũng là một bằng cứ gián tiếp cho năm khởi dựng Văn Miếu vào thời vua Lý Thánh Đại Thành cửa của sự thành đạt lớn lao, mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa, mang một cái tên đầy ý nghĩa tưởng không còn có thể chọn một tên nào có ý nghĩa hay cửa nhỏ theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh là Kim Thành bên phải và Ngọc Thành bên trái, hiện nay là Kim Thanh môn và Ngọc Chấn môn nằm ngang với cửa Đại Thành, song 2 cửa này không mở vào thẳng khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía sau 2 dãy Tả Vu và Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công mà Tiểu đình chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và Điện ở phía sau 9 gian, tường xây 3 phía, phía trước có cửa bức bàn đóng kín 5 gian giữa, 4 gian đầu hồi có cửa chấn song cố định. Nhìn chung Thượng Điện kín đáo và do đó cũng tối hơn Đại Bái, đó cũng là ý đồ của công trình sư muốn tạo cho nơi đây một không khí thâm nghiêm, u tịch và họ đã thành công mỹ mãn. Nơi đây là nơi thờ những vị tổ đạo Nho. Gian chính giữa có cái khám và ngai lớn để trên một bệ xây, trong có bài vị Chí thánh tiên sư Khổng Tử. Cách 2 gian 2 bên tới những gian khác cũng có bệ xây và cũng có khám, trong khám có ngai và bài vị. Bên trái có 2 ngai thờ Tăng Tử và Mạnh Tử; bên phải có 2 ngai thờ Nhan Tử và Tử Tư. Bốn vị được thờ trên đây tức là Tứ phối được quy định thờ từ ngày mới xây dựng Văn Miếu. Ngoài bài vị ra cả bốn vị đều có tượng gỗ sơn thiếp rất uy gian đầu hồi cũng có 2 khám lớn xếp chầu vào gian giữa, thờ Thập Triết gồm những vị Mẫu tử, Nhiễm tử, Đoan mộc tử, Trang Tử, Bốc tử, Hữu tử, Tề tử, Ngân tử, Suyền Tôn tử, Chu Đại Bái bên ngoài cũng xây 9 gian, nhưng chỉ xây 2 tường hồi còn mặt trước mặt sau để trống. Tòa Đại Bái này có chức năng hành lễ trong những kỳ tế tự xuân thu. Chỉ gian chính giữa có hương án thờ còn các gian khác đều bỏ trống. Tại đây treo khá nhiều hoành phi câu đối. Bức hoành gian giữa khắc 4 chữ Khang Hi ngự thư và Đồng Khánh Mậu Tý trọng đông thuận đề 1888Cũng như Thượng Điện, Đại Bái đường mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, kẻ bảy giản đơn không chạm trổ cầu kỳ, chồng đấu làm theo kiểu đấu đỡ cột chồng rất Việt Nam, khác hẳn với phong cách kiến trúc đồng thời của những công trình ở các nước láng giềng. Đền Khải Thánh - Quốc Tử GiámKhổng Tử 551TCN - 479TCNTượng thờ trong điện Đại thành được làm năm 1729[i]Khu Khải Thánh là khu sau cùng của di tích. Từ Văn Miếu sang đến Khải Thánh người ta có thể đi theo hai con đường lát gạch phía sau Tả Vu và Hữu Vu, hoặc cũng có thể từ sau lưng Thượng Điện qua cửa tam quan. Cửa này là cửa chính cũng xây 3 gian, có mái lợp và cánh cửa đóng mở. Từ bên ngoài vào đền Khải Thánh cũng có thể qua một cổng nhỏ có cánh mở ở góc Đông Nam nơi tiếp giáp với bức tường ngăn 2 khu Văn Miếu và Khải Khải Thánh là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử tức là Thúc Lương Ngột và Nhan Thị. Phần nửa diện tích của khu này là sân phía trước. Sân bị con đường lát gạch ngăn đôi dẫn từ cửa tam quan lên chính giữa đền thờ. Nửa sân bên trái có 2 tấm bia ghi đại lược như sau Thăng Long là nơi đô thành cũ; là nhà Thái Học xưa. Hai bên cửa Văn Miếu có dựng bia đề tên Tiến sĩ, bắt đầu từ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo, tới khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, nay hiện còn 82 tấm, đó chỉ là một số nhỏ. Trong thời gian từ đó tới nay gió táp mưa sa, cỏ lấp rêu phong, có tới hơn 10 tấm chữ khắc bị mòn, lỏng chỏng mỗi nơi mỗi tấm, phần nhiều sứt mẻ không thể đọc được hết 十 面 餘 零 星 散 立, 多 斑 駁 不 可 卒 讀. Thập diện dư linh tinh tán lập, đa ban bác bất khả tốt độcTôi là Thanh đến làm quan ở đây, vẫn thường muốn làm việc ấy. Mùa thu năm nay, công việc đỡ bận, tôi bàn với quan tổng đốc và quan án sát, bàn cách làm nhà ngói mỗi bên 2 tòa nhà, mỗi tòa 11 gian. Tấm bia nào đổ lỏng chỏng thì đem xếp lại, mặt bia nào bị sứt sở thì đem so sánh mà khắc lại. Cất giữ lấy vết tích xưa vậy.... Thật sự 2 tấm bia này cũng là những tư liệu trúc đền Khải Thánh sơ sài hơn song cũng có Tả Vu, Hữu Vu 2 bên và đền thờ ở giữa. Đền Khải Thánh vốn được xây dựng trong khu vực Quốc Tử Giám xưa, còn gọi là khu Thái học nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại. Theo văn tịch thì khu này xưa có 150 gian phòng dành cho giám sinh, coi như khu cư Năm 1946 quân Pháp đã bắn đại bác phá hủy sạch không còn lại một kiến trúc nào. Kiến trúc ngày nay là hoàn toàn mới. Toàn bộ mái đều được lợp hai lớp ngói lót, trên là một lớp chì dày 1,5mm rồi đến một lớp ngói lót nữa, và trên cùng là ngói mũi hài. Phần giữa các cột nhà với chân đá tảng cũng đặt một tấm chì dày 1,5mm để chống ẩm từ dưới lên. Nền sân đều được lát gạch bát kích thước 30x30x4cm. Xung quanh nhà đều được bó vỉa bằng đá xanh. Quy mô kiến trúc khu Thái Học mới rất bề thế, trang nghiêm và hài hoà với kiến trúc cảnh quan của khu Văn Miếu phía trước. Nhà Tiền đường, Hậu đườngĐây là công trình xây dựng hoàn toàn do Trung tâm thiết kế tu bổ di tích - Bộ Văn hoá Thông tin thiết kế kỹ thuật, nằm trong công trình trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 - 7 - Tiền đường 9 gian với 40 cột gỗ lim chống mái, đầu hồi xây tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài để trần không trát. Gian đầu hồi và gian thứ ba mặt trước, mặt sau đều có cửa bức bàn chấn song con tiện dẫn sang nhà Hậu với nhà Bái đường của khu Văn Miếu, cột cái của nhà Tiền đường đều to và cao hơn, đường kính cột là 0,48m, chiều cao cột là 7m. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo ngày nay, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Ống muống nối Tiền đường với Hậu đường vào với nhau và có hai cửa sang nhà chuông, nhà đường là kiến trúc gỗ hai tầng, tầng 1 gồm 9 gian, 2 chái với 72 cột gỗ lim, trong đó 8 cột cái cao 11,5m đường kính 0,56m. Hai đầu hồi xây tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài cũng để trần không trát. Phía trước là cửa bức bàn chấn song con tiện, xung quanh là vách đố lụa. Gian đầu hồi mặt sau, gian thứ 3 và gian thứ 7 mặt trước là cửa sổ chấn song con một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dục Nho học Việt Nam giới thiệu khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Văn Miếu - Quốc Tử Giám cùng những giá trị sâu sắc của truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học, đề cao nhân tài, thừa kế và phát huy di sản văn hoá dân 2 có 5 gian xung quanh là vách đố lụa, mặt trước có 5 cửa và mặt sau có 4 cửa để ra lan can phía trước và 2 là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học của Việt Nam. Đó là các vị Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông Những tu bổ sau năm 1954 Năm 1954 sau ngày tiếp quản Thủ đô, cơ quan chủ quản ngành văn hoá Hà Nội trùng tu lại hai dãy Đông vu, Tây vu ở hai bên sân Đại bái. Ngày 28 - 4 - 1962, Bộ văn hoá đã công nhận xếp hạng là khu di tích lịch sử cấp Nhà nước. Ngày 25 - 4 - 1988, thành lập Trung tâm hoạt động văn hoá khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám có chức năng quản lý tu bổ, tôn tạo di tích cho xứng đáng với danh tiếng và vai trò trong lịch sử phát triển nền văn hoá giáo dục của dân tộc. Năm 1991 Tu bổ điện Đại Thành và cải tạo toàn bộ hệ thống thoát nước. Năm 1992 Nạo vét cạp lại 4 hồ nhỏ ở khu vực thứ nhất và thứ hai. Năm 1993 Tu bổ thảm cỏ cây xanh, thay đất trồng lại cỏ, xây dựng nhà vệ sinh, nhà kho ở sau dãy hữu vu phía Tây. Năm 1994 Xây dựng lại 8 nhà che bia, sắp xếp bia Tiến sĩ, mỗi bên 4 dãy, mỗi dãy 10 bia. Đặt bia của 2 khoa thi 1442 và 1448 vào giữa hai toà đình bia, đồng thời sửa chữa toàn bộ đường đi trong khu di tích, nạo vét giếng Thiên Quang. Năm 1995 Lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng, tu bổ tường bao từ khu thứ nhất đến khu thứ tư của Văn Miếu, Tu sửa nhà Bái đường, Cổng Đại Trung, cổng Đại Thành, Khuê Văn Các, cổng Thái Học, sơn son thiếp vàng toàn bộ các cột, cổng, hoành phi câu đối của khu di tích. Ngày 13 - 7 - 1999 Khởi công xây dựng khu Thái Học làm nơi tôn vinh truyền thống văn hoá dân tộc. Đây là công trình kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội Ngày 8 - 10 - 2000 làm lễ khánh Trong đợt đại trùng tu 1990-2000 hai đơn vị thi công là Công ty Tu bổ di tích và thiết bị văn hoá trung ương và Công ty Xây dựng và phục chế công trình văn hoá Hà Nội, đã làm theo mẫu thiết kế Công trình xây dựng khu Thái Học do Trung tâm Thiết kế và Tu bổ di tích- Bộ Văn hoá Thông tin thiết kế, kiến trúc sư Lê Thành Vinh chủ trì. Thiết kế quy hoạch theo ý nghĩa là một nơi tôn vinh nền giáo dục và là trung tâm hoạt động văn hóa, khoa học truyền thống và đương đại. Công trình Khu Thái học đã được trao giải thưởng kiến trúc quốc gia năm 2000 Đánh giá Khổng Tử là người Trung Quốc, Nho giáo là sản phẩm bắt nguồn từ Trung Quốc. Chế độ dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử cũng do người Trung Quốc chế định. Việc dựng Văn Miếu ở Việt Nam tất không thể không phỏng theo chế độ Trung Hoa. Song sự khác biệt giữa Văn Miếu Việt Nam và Văn Miếu Trung Quốc lại rất lớn và rất rõ ràng. Văn Miếu Hà Nội vai trò của nó không chỉ là một điện thờ mà nó còn là một trường học. So sánh với kiến trúc thờ Khổng Tử ở Khúc Phụ, Trung Quốc, ta dễ thấy những điểm dị đồng. Cả hai nơi Khúc Phụ và Hà Nội đều có những kiến trúc mang tên chung như Đại Trung môn, Đại Thành môn, Khuê Văn Các Thế nhưng điểm giống nhau chỉ là tên gọi mà thôi. Nhìn chung bố cục kiến trúc ở Khúc Phụ quy mô lớn hơn, Kiến trúc chủ thể sắp xếp trên trục Bắc Nam là Kim Thanh Ngọc Chấn phường, Linh Tinh môn, Thánh Thời môn, cầu Bích Thủy, Hoằng Đạo môn, Đại Trung môn, Khuê Văn các, Đại Thành môn, Hạnh đàn, Đại Thành điện, Tẩm điện, Thánh Tích điện, đối xứng hai bên là các cổng nhỏ, lầu gác, Thi Lễ đường và các nhà bia... Khải Thánh điện ở bên Tây của điện Đại Thành... với kiểu dáng kiến trúc chồng diêm, chồng rường đòn bẩy tô vẽ màu sắc rực rỡ, kiến trúc rậm rì hơn. Kiến trúc ở Hà Nội quy mô nhỏ hơn, đi từ đầu tới cuối chỉ qua 5 cổng, kiến trúc thoáng hơn song cảnh trí xung quanh như cây cối, hồ nước, thanh nhã, phong quang thì rõ ràng hơn hẳn. Nếu đi sâu vào từng kiến trúc từ cột kèo, chồng đấu, cho tới những bức ván chạm trổ thì một Trung Quốc, một Việt Nam không sao lẫn nổi. Cho dù bóng dáng kiến trúc thời Lý, Trần nay không còn dấu vết nơi đâu, phần lớn kiến trúc đều là sản phẩm của thời Lê mạt, song Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội vẫn giữ được trọn vẹn giá trị của một khu di tích kiến trúc cổ Việt Nam xứng đáng được bảo tồn mãi Vào ngày 9 tháng 3 năm 2010, UNESCO đã chính thức công nhận 82 tấm bia tại Văn miếu - Quốc Tử Giám, là Di sản tư liệu thế giới Ý nghĩaVề mặt di tích mà nói thì 2 nhà bia Tiến sĩ ở 2 bên giếng Thiên Quang là nơi bảo tồn những di tích quý nhất của cả khu di tích lịch sử này. 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn có giá trị về nhiều mặt. Đây là những tư liệu văn tự bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi được dựng. nhà sử học có thể tìm thấy ở đây những tư liệu về lịch sử giáo dục, về những tên tuổi gắn bó với lịch sử dân tộc, quê quán, danh tính những bậc nhân tài được ghi cụ thể, chính xác thông qua đó có thể xác định tuổi cho nhiều di tích ở những nơi không ghi niên đại. nhà địa lý có thể tra cứu những địa danh cũ để tìm ra những vùng đất cổ liên quan đến thời hiện tại. nhà nghiên cứu triết học có thể tìm ở đây những chứng cứ để xác định vai trò của Nho giáo ở Việt Nam những người Việt Nam ở khắp nơi cũng tới đây tìm tên họ một vị tổ nào đó thuộc dòng họ nhà mình xưa đã có tên trong khoa bảng đây còn là những tư liệu có hệ thống liên tục, ít nhất cũng trong vòng 3 thế kỷ từ 1484 tới 1780 về kỹ thuật điêu khắc đá. Nhà nghiên cứu mỹ thuật và các nghệ sĩ tạo hình có thể từ những hình dáng bia, rùa, hoa văn và các mô típ chạm khắc trên bia mà tìm ra tinh hoa của nghệ thuật dân tộc để phát huy, áp dụng vào những sáng tạo hiện đại. đã có nhiều bài nghiên cứu viết về bia Tiến sĩ, song việc khai thác tư liệu của 2 nhà bia vẫn còn tiếp tục. Các nhà khoa học đều cho rằng văn bia tiến sĩ xứng đáng là pho "sử đá" có nhiều giá trị độc đáo và hiếm có về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật chế tác... không chỉ với Việt Nam mà cả thế giới. Xem thêm Văn miếu Xích Đằng Văn miếu Quốc tử giám Văn miếu Bắc Ninh Trạng nguyên Việt Nam Ghi chú ^ Bản gốc chữ Hán ghi là "Tu Văn Miếu", vậy cũng có thể hiểu là Văn Miếu có trước 1070, năm ấy được sửa lại và đắp tượng... Các dịch giả của viện sử học năm 1967 dịch là "làm Văn Miếu", đúng ra phải dịch là sửa Văn Miếu ^ tức Lê Hữu Thanh người xã Thượng Tầm, huyện Thanh Quan, tỉnh Nam Định, đỗ Cử nhân năm 1850, Hoàng giáp năm 1851 ^ Hoàng Huân Trung Người xã Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Thi Hương khoa Quý Mão, niên hiệu Thành Thái thứ 15 1903 tại trường thi Nam Định. Đỗ Cử nhân năm 24 tuổi ^ ý của văn bia khắc năm 1865 ^ Sao Khuê là ngôi sao tượng trưng cho văn học ^ Nhà Nho Đào Văn Bình 1893-1959, tự Dã Nhân, đạo hiệu Thiên tuệ bồ tát, người làng Ngoại lãng, tổng Vô Ngại, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình, nhiều năm nghiên cứu về bia Tiến sĩ. Trước khi mất ông ký thác lại tư liệu cho bạn là Trần Văn Giáp để tiếp tục nghiên cứu. Trong thơ ông viết gửi Trần Văn Giáp có đoạn Tôi đã nhiều lần mặc áo cộc, quần đùi đi giầy Tây, ghệt, xung phong lội vào 2 vườn bia để khảo cứu 2 điểm trên này nhưng mỗi khi thấy cỏ cao hơn thước hoặc cao hơn đầu thì lại rụt chân lại, dùng dằng nấn ná cho đến bây giờ. ^ Tức năm 1070 dương lịch. Sử cũ đều ghi rằng tháng 8 mùa thu năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2, vua Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ^ Năm 1888 dương lịch ^ Quyền tri phủ phủ Thuận An - Nguyễn Kim Hoa tạo tượng Tiên thánh, đề ngày 8 tháng 8 năm Vĩnh Khánh thứ nhất 1729 Tham khảo ^ Nguyễn Quang Lộc; Phạm Thúy Hằng 2009. Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Thăng Long - Hà Nội. tr. 59. ^ Sử quán Hậu Lê 1973. Đại Việt sử ký toàn thư 4. Hà Nội Nhà xuất bản Khoa học xã hội. tr. 7. ^ Lê Quý Đôn 1962. Kiến văn tiểu lục. Hà Nội Nhà xuất bản Sử học. tr. 68–69. ^ Nguyễn Quang Lộc; Phạm Thúy Hằng 2009. Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Thăng Long - Hà Nội. tr. 100. ^ Nguyễn Quang Lộc; Phạm Thúy Hằng 2009. Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Thăng Long - Hà Nội. tr. 79. ^ Sự thật về người nói câu “Hiền tài là nguyên khí quốc gia“, Báo điện tử Kiến thức, 05/09/2016 ^ 82 Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám viết gì? ^ Quỳnh Trang 7 tháng 12 năm 2017. “Chính xác, bia tiến sĩ ghi đầy đủ thông tin về khoa thi, triều vua và triết lý về nền giáo dục đào tạo”. VnExpress. ^ Trần Văn Tích 1992. Sự muôn ăm cũ. Toronto, Canda. tr. 284. ^ Nguyễn Quang Lộc; Phạm Thúy Hằng 2009. Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Thăng Long - Hà Nội. tr. 67–68. ^ Nguyễn Quang Lộc; Phạm Thúy Hằng 2009. Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Thăng Long - Hà Nội. Tài liệu Vũ Tam Lang 1991. Kiến trúc cổ Việt Nam. Nhà xuất bản Xây dựng. Lê Quý Đôn. Kiến văn tiểu lục. Sử quán Hậu Lê 1697. Đại Việt sử ký toàn thư. Tạp chí nghiên cứu lịch sử 46. Tháng 1 năm 1963. Nguyễn Quang Lộc; Phạm Thúy Hằng 2009. Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Thăng Long - Hà Nội. Nguồn Wikipedia
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một khu di tích lịch sử mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình phát triển văn hóa của Việt Nam, là một bằng chứng về sự đóng góp của Việt Nam vào nền văn minh Nho giáo trong khu vực và nền văn hóa mang ý nghĩa nhân văn của Tòan Thế giới. Văn Miếu và Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thủ đô Hà Nội. Thời Nhà Lý Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long là tổ hợp gồm hai di tích Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An – người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; Quốc Tử Giám – Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 dưới thời Vua Lý Thánh Tông 1054-1072, có tạc tượng Chu Công, Khổng Tử cùng tứ phối là Nhan Tử, Tăng Tử, Tư Tử, Mạnh Tử và hình vẽ các hiền nho để thờ cúng, bốn mùa tế lễ. Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông cho xây nhà Quốc Tử Giám kề sau Văn Miếu. Khi mới xây dựng, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý nên gọi tên là Quốc Tử. Từ năm 1253, Vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử Giám và thu nhận cả con cái thường dân có học lực xuất sắc. Đời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp Hiệu trưởng và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Đến năm 1370 Chu Văn An qua đời được Vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử. Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Vua Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ của những người đỗ Tiến sĩ từ khóa thi năm 1442 trở đi. Nay chỉ còn lại 82 tấm bia tiến sĩ. Bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được Unesco công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới vào ngày 9/3/2010. Sau Mộc bản Triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ 2 của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thế giới. Bia tiến sĩ Năm 1762, vua Lê Hiển Tông cho sửa lại Quốc Tử giám làm Cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 Quốc Tử Giám được đổi thành nhà Thái học. Đến đầu thời Nguyễn, năm 1802, Gia Long bãi bỏ trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội, đổi nhà Thái Học làm nhà Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử và xây dựng Khuê Văn Các ở trước Văn Miếu. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử. Tuy nhiên, quy mô và kiến trúc ở đây đơn giản hơn. Bốn mặt đều là phố, cổng chính phía Nam là phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện thích rộng m2. Trước mặt Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa. Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn. Khu thứ hai từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các. Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông 85cm x 85cm bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ. Khuê Văn Các Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Khu thứ ba gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh nghĩa là giếng soi ánh mặt trời, có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích. Khu thứ tư là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung. Khu thứ năm là khu Thái Học. Trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999. Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.
Nhà Trần đã có những biện pháp gì để xây dựng quân đội vững mạnh và củng cố quốc phòng? Xem chi tiết Câu hỏi Tự luận * Sự thành lập nhà Trần và sự củng cố chế độ phong kiến tập quyền1. Nguyên nhân nào làm cho nhà Lý suy yếu? Những việc làm trên của vua, quan nhà Lý dẫn đến hậu quả gì?3 Em hãy nêu những nét chính của bộ luật Quốc Triều Hình Luật?4 Qua tìm hiểu em thấy pháp luật thời Trần có điểm gì giống và khác nhau với thời Lý?5 Vì sao khi mới thành lập ,nhà Trần rất quan tâm tới việc xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng?6 Quân đội nhà Trần được tổ chức như thế nào? Được tuyển chọn ra sao?...Đọc tiếp Xem chi tiết - Dựa vào đâu có thể nhận định thời Lý - Trần dân tộc ta xây dựng được nền văn minh rực rỡ, gọi là văn minh Đại Việt? Xem chi tiết Nêu chủ trương và biện pháp xây dựng quân đội củng cố quốc phòng thời Trần Xem chi tiết Câu 1Hãy cho biết nhà Lý đã làm gì để đẩy mạnh sản xuất nông 2Hãy nêu những nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường 3Vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước thời 4Hãy trình bày nguyên nhân 3 lần thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên. Giúp mình với nha mình sắp thi òiĐọc tiếpCâu 1Hãy cho biết nhà Lý đã làm gì để đẩy mạnh sản xuất nông 2Hãy nêu những nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường 3Vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước thời 4Hãy trình bày nguyên nhân 3 lần thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên. Giúp mình với nha mình sắp thi òi Xem chi tiết Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là trần cảnh đánh dấu điều gì A. Sự bất mãn của nhân dân thời nhà lý B. Sự liên minh giữ hai nhà lý trần C. Sự thành lập nhà trần Xem chi tiết ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN LỊCH SỬ 7PHẦN Trắc nghiệmCâu1 Việc nhà Lý dời đô về Thăng Long có ý nghĩa như thế nào?Câu2 Nhà Lý ban hành bộ luật gì?Câu3 Tại sao nhà Tống quyết tâm xâm chiếm Đại việt?Câu4 Mục đích Lý Thường Kiệt đánh vào châu Ung, châu Khâm và châu Liêm ?Câu5 Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng cách nào?Câu6 Một chế độ đặc biệt chỉ có trong triều đình nhà Trần, đó là chế độ gì?Câu 7 Tại sao lại nói rằng nước Đại Việt dưới thời Trần phát triển hơn dưới triều Lý?Câu8...Đọc tiếp Xem chi tiết mọi ng ơi giúp mình với 33333ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN LỊCH SỬ 7PHẦN Trắc nghiệmCâu1 Việc nhà Lý dời đô về Thăng Long có ý nghĩa như thế nào?Câu2 Nhà Lý ban hành bộ luật gì?Câu3 Tại sao nhà Tống quyết tâm xâm chiếm Đại việt?Câu4 Mục đích Lý Thường Kiệt đánh vào châu Ung, châu Khâm và châu Liêm ?Câu5 Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng cách nào?Câu6 Một chế độ đặc biệt chỉ có trong triều đình nhà Trần, đó là chế độ gì?Câu 7 Tại sao lại nói rằng nước Đại Việt dưới thời Trần phát t...Đọc tiếp Xem chi tiết so sánh nhà trần với nhà lý qua kinh tế, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật Xem chi tiết
26 Nov 2022 - 18 min readNhắc tới Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, các bạn sẽ nghĩ ngay tới một Hà Nội cổ kính, thơ mộng với Hồ Gươm, Lăng Bác, phố cổ, Hồ Tây thơ mộng… hay những ngôi chùa linh thiêng có lịch sử hàng trăm năm tuổi. Cùng với đó, Hà Nội cũng có một địa điểm rất nổi tiếng, giàu bản sắc văn hóa. Nơi đây không chỉ là di tích lịch sử mà còn là nơi được rất nhiều học sinh, sinh viên từ khắp nơi đến cầu thi cử, đỗ đạt. Đó chính là Văn Miếu Quốc Tử Giám – ngôi trường đại học đầu tiên của Việt sử Văn Miếu Quốc Tử GiámTừ năm 1070, Văn Miếu được xây dựng vào năm thần vũ thứ hai đời vua Lý Thánh Tông. Năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám nằm bên cạnh Văn Miếu. Trường đại học đầu tiên ở Việt Nam ra đời. Thời kì đầu, trường là nơi chỉ dành riêng cho con vua và con của các bậc quyền quý đại thần theo học nên có tên gọi là Quốc Tử. Người đầu tiên theo học tại đây là hoàng tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên Phi Ỷ Lan. Văn Miếu được vua Lý Anh Tông cho sửa lại vào năm 1156 và chỉ thờ Khổng 1253, Vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện, mở rộng và cho phép thu nhận cả con của các nhà thường dân học hành xuất Văn An được cử làm Quốc Tử Giám Tư nghiệp hiệu trưởng vào đời vua Trần Minh Tông và là thầy giảng dạy trực tiếp cho các hoàng tử. Ông mất năm 1370, sau đó vua Trần Nghệ Tông cho thờ ông ở Văn Miếu bên cạnh nơi thờ Khổng Giáo rất thịnh hành vào thời Hậu Lê. Vua Lê Thánh Tông đã cho dựng các tấm bia đá của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi năm 1442. Mỗi tấm bia đều được đặt trên lưng rùa. Đời vua Lê Tháng Tông 1460-1497, nhà Lê đều đặn 3 năm một lần tổ chức các khoa thi, tổng cộng có 12 khoa khoa thi hoàn thành xong không phải lúc nào cũng được khắc bia ngay. Có những tấm bia bị hư hỏng, mất mát theo thời gian. Trong lịch sử cũng đá có rất nhiều đợt trùng tu, dựng lại bia lớn, điển hình như năm 1653 – năm Thịnh Đức thứ nhất hay năm 1717 – năm Vĩnh Thịnh thứ 13. Bia vẫn được khắc đều đặn vào cuối Triều Lê, thời Cảnh năm 1802, vua Gia Long đổi tên thành Văn Miếu Hà Nội. Vì vậy vào thời nhà Nguyễn, Văn Miếu chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc dân Pháp đã nã đại bác vào năm 1947 làm đổ sập căn nhà, chỉ còn lại nền và hai cột đá, 4 nghiên đá. Toàn bộ khu Thái Học ngày nay với diện tích 1530m2 được xây dựng trên tổng diện tịc di chuyển tới Văn MiếuVăn Miếu có địa chỉ tại 58 Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội và tọa lạc ngay giữa 4 con phố chính gồm phố Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử các bạn xuất phát từ Hồ Gươm, hãy đi theo phố Hàng Bông, đi thẳng sang đường Cửa Nam, Nguyễn Khuyến rồi tiếp tục rẽ trái vào đường Văn Miếu là đến. Các bạn cũng có thể đặt xe grab, taxi với giá vé rất linh hoạt vì Văn Miếu nằm rất gần với Hồ di chuyển bằng xe bus, các bạn hãy đi những tuyến sau sẽ có điểm dừng ngay gần khu vực này 02, 23, 38, 25, vé vào cửaHiện nay, khách du lịch vào tham quan Văn Miếu phải mua vé vào cổng. Giá vé dành cho người lớn là và vé trẻ em là là mức giá khá rẻ và áp dụng chung cho cả khách Việt Nam và khách nước gian mở cửaCó một lưu ý là Văn Miếu sẽ mở cửa theo mùa, giờ mở cửa không cố định.– Thời gian mở cửa theo ngày Từ thứ 2 đến thứ 6 Mở cửa từ 730 đến 1800;thứ Bảy, Chủ nhật Văn Miếu mở muộn hơn 30 phút tức 800 và đóng muộn hơn 3 tiếng 2100.– Thời gian mở cửa theo mùa Vào mùa hè từ 15/4 – 15/10, Văn Miếu sẽ mở cửa đón khách từ 730 và đóng lúc 1800. Mùa lạnh từ 16/10 – 14/4 năm sau, du khách có thể đến tham quan Văn Miếu từ 800 đến 18 trúc của Văn MiếuLê Quý Đôn đã miêu tả Văn Miếu thời nhà Lê trong cuốn Kiến văn tiểu lục rằng Cửa Đại Thành Nhà 3 gian 2 chái, lợp bằng ngói đồng, Tây Vũ và Đông vũ 2 dãy đều 7 gian, cửa nhỏ 1 gian phía sau, điện canh phục gồm 1 gian 2 chái, 2 gian nhà bếp, kho tế khí 3 gian 2 chái, cửa Thái học 3 gian, có tường ngang lợp bằng ngói đồng ngói ống, nhà bia phía đông và tây đều 12 gian, kho để ván khắc sách 4 gian, ngoại nghi môn 1 gian, xung quanh đắp tường, cửa hành mã ngoài tường ngang 3 gian, nhà Minh Luân 3 gian 2 chái, Cánh cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian và có tường ngang. nhà giảng dạy nằm ở phía đông và phía tây, có 2 dãy, mỗi dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá nằm ở phía tây và phía đông đều ba dãy, mỗi dãy có 25 gian, mỗi gian ở 2 trúc của toàn bộ Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc của thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên là bốn bức tường được xây bằng gạch nay, kiến trúc Văn Miếu được chia làm ba khu vực chính Văn Hồ, vườn Giám và cuối cùng là nội tự Văn Miếu mônPhía trước Văn Miếu môn gồm có tứ trụ nghi môn và hai tấm bia Hạ mã下馬 nằm ở hai bên, đó chính là mốc ranh giới chiều ngang ở phía trước mặt cổng. Thời xưa đã quy định rằng Dù là công hầu hay khanh tướng, dù cho đi bằng võng lọng hay xe ngựa, cứ hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ từ tấm bia Hạ mã bên này cho tới tấm bia Hạ mã bên kia, sau đó mới được lên lại xe ngựa. Thế mới thấy rằng Văn Miếu có vị trí tôn nghiêm như thế trụ được xây dựng bằng gạch, ở hai trụ giữa được xây cao hơn và có hình hai con nghê chầu vào. Theo quan niệm tâm linh thì đây chính là vật linh thiêng có khả năng nhìn ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ phía ngoài được đắp nổi bốn con chim phượng chắp đuôi vào nhau. Trên tứ trụ có câu đối chữ Hán được tạm dịch làĐông, tây, nam, bắc cùng đạo này- Công, khanh, sĩ phu xuất thân từ đường nàyBa chữ Văn Miếu môn được khắc bằng tiếng HánVăn miếu môn có ý nghĩa là cổng tam quan phía ngoài. Cổng gồm có ba cửa, cửa ở giữa cao to và được xây 2 tầng. Tầng trên của cửa có ba chữ 文廟門 Văn miếu môn. Kiến trúc của Văn Miếu môn rất độc đáo. Nhìn bên ngoài cửa tam quan là ba kiến trúc riêng biệt. Cửa chính giữa thực chất được xây hai tầng, mặt bừng hình vuông, tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên tầng Trung mônKhông gian thứ nhất đi từ cổng chính Văn Miếu môn được gọi là khu Nhập đạo, đi theo đường thẳng tới cánh cổng thứ hau là Đại Trung môn. Bên trái ngang hàng với Đại Thành môn là Thành Đức môn, bên phải là Đạt Tài môn. Ngày nay, hai bên là không gian xanh của cây cối và thảm cỏ. Hai bên tả hữu của toàn bộ khu Văn Miếu, cùng với tường ngang của Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vuông, tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Có hai chiếc hồ hình chữ nhật nằm sát theo chiều dọc bên ngoài. Cảnh vật ở đây tạo một cảm giác thanh tịnh, trang Đại Trung môn có kiến trúc 3 gian, xây trên một nền gạch cao, mái lợp ngói mũi hài, gồm hai hàng cột hiên trước và sau, ơt giữa có một cột chống nóc. Một tấm biển nhỏ đề 3 chữ Đại Trung Văn CácBước qua Đại Trung môn, đi sâu vào phía bên trong, các bạn sẽ được chiêm ngưỡng môt biểu tượng của thủ đô Hà Nội, đó chính là Khuê Văn Văn Các – gác vẻ đẹp của sao Khuê là một lầu vuông gồm tám mái, bốn mái thượng và bốn mái hạ. Khuê Văn Các cao gần chin thước, được Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều nhà Nguyễn cho xây dựng vào năm 1805. Gác được dựng trên một nền vuông lát gạch Bát tràng cao cân xứng, mỗi bề có chiều dài 6,8m. Phải đi qua ba bậc thang đá mới bước lên được nền vuông này. Khuê Văn Các có kiến trúc rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới có 4 trụ gạch vuông, mỗi trụ dài 1m và trên mặt trụ đều được trạm chỗ hoa văn tinh xảo. Tầng trên có kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng, trừ mái lợp và những phần góc mái được làm bằng chất liệu vôi cát hoặc đất nung có độ bền Khuê Văn – Biểu tượng của thủ đô Hà NộiCó hai khoảng trống được chừa lại trên sàn gỗ để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn là diềm gỗ được trạm chổ tỉ mỉ, tinh vi. Bố góc sàn cũng được làm bằng gỗ. Bốn mặt tường của Khuê Văn Các được bịt ván gỗ, mỗi mặt có một cửa tròn có thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Những thanh gỗ và cửa tượng trưng cho sao Khuê và tia sáng của sao. Sát mái phía trên cửa ngoài vào có treo một biển sơn son thếp vàng khắc ba chữ 奎文閣Khuê Văn Các. Trên mỗi mặt tường gỗ đều được chạm một câu đối chữ Hán. Cả bốn câu đối đều rất có ý Tiến sĩ, giếng Thiên QuangTại Văn Miếu, di tích có giá trị bậc nhất có lẽ là 82 tấm bia Tiến sĩ được dựng ở hai bên của giếng Thiên Quang. Mỗi bên có 41 tấm dựng thành hai hàng ngang, mặt bia quay về phía giếng. Mỗi vườn bia hai bên xây một tòa đình vuông, 4 mặt đều bỏ trống, có nền cao ở giữa, có bệ, cửa trông thẳng xuống giếng. Thời xưa, hàng năm vào xuân thu nhị kỳ, tại Văn Miếu đều làm lễ tế, soạn sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia, tấm sớm nhất được dựng vào năm 1484, tấm cuối cùng vào năm 1780. Có nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa của tấm bia khác, nhiều tấm bị nứt vỡ phải hàn gắn cộng có 82 tấm bia Tiến sĩBia được đặt trên lưng rùaThiên Quang mang ý nghĩa là ánh sáng bầu trời. Người xây dựng đã đặt tên này cho giếng có ý nói là con người đều thu nhận được tinh túy của vũ trụ, tri thức soi sáng, tô đẹp nhân văn. Giếng có hình vuông, quanh giếng được xây hàng lan can cao ngang lưng. Người xưa quan niệm rằng, giếng hình vuông tượng trưng cho đát, cửa tròn Khuê Văn Các tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả đất trời đều tập trung về những năm thực dân Pháp xâm chiếm Hà Nội, hai vườn bia có lúc hoang tàn, cỏ mọc cao quá đầu người. Ngày nay, hai nhà bia đã được tu sửa lại theo mẫu nhà bia cuối cùng thời vua Tự Thành mônBước qua cửa Đại Thành, các bạn sẽ bước vào không gian thứ ba, là khu vực chính của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Cửa Đại Thành có kiến trúc 3 gian cùng với hai hàng cột hiên trước và sau, một hàng cột ở giữa. Trên giáp nóc chính giữa có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成門 Đại thành môn.Cánh Cửa Đại Thành là nơi mở đầu cho khu vực của những nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Thất Thập nhị hiền… Đây cũng chính là nơi giảng dạy của trường giám ngày xưa. Đại Thành là một cái tên mang đầy ý nghĩa – cửa của sự thành đạt lớn của Đại Thành môn rất rộng được lát gạch Bát Tràng. Hai bên là Tả vu và Hữu vu, trước mặt là tòa Đại Bái Đường trang nghiêm, rộng rãi và trải dài suốt chiều rộng của sân. Phía sau Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện nằm ở phía sau có 9 gian, 3 phía xây tường, là nơi kín đáo nên không gian tối hơn Đại Bái. Đây cũng là ý đồ của công trình sư nhằm tạo cho Thượng Điện một không khí trang nghiêm, u tịch. Thượng Điện thờ vị tổ đạo Nho. Có một cái khám và ngai lớn ở chính giữa để trên một bệ xây, trên là bài vị Chí thánh tiên sư Khổng Tử. Những gian khác cũng có bệ xây và cũng có khám, có ngai và bài vị. Bên trái thờ Tăng Tử và Mạnh Tử, bên phải thờ Nhan Tử và Tử Tư. Cả bốn vị đều có tượng gỗ sơn son thếp vàng rất uy nghi lễ đón rước tiến sĩ về làng đươc tái hiện lạiĐền Khải ThánhĐền Khải Thánh nằm ở phía sau cùng của Văn Miếu. Để đi từ Đại Thành môn, các bạn có thể đi theo hai con đường lát gạch phía Tả Vu và Hữu vu, hoặc đi từ sau lưng Thượng Điện qua cửa Tam mẹ Khổng Tử là Thúc Lương Ngột và Nhan Thị được thờ tại đền Khải Thánh. Nửa phần diện tích của khu là phía sân trước, sân bị một con đường lát gạch ngăn đôi dẫn từ tam quan lên chính giữa điện trên của đền nhìn xuống lầu chuôngKiến trúc của đền Khải Thánh khá sơ sài nhưng vẫn có Tả vu, Hữu vu và điện thờ ở giữa. Xưa đền Khải Thánh vốn là Quốc Tử Giám hay còn được gọi là nhà Thái Học, nơi rèn luyện nhân tài cho nhiều triều đại. Theo như văn tịch thì khu Khải Thánh xưa có 150 gian phòng dành cho giám sinh, hay còn gọi là khu cư xá. Thực dân Pháp đã bắn đại bác phá hủy toàn bộ khu giám sinh vào năm 1946, không còn sót lại một kiến trúc phong của nhà vua cho Tiến sĩ được lưu giữ tại đềnNgày nay hoàn toàn là kiến trúc mới. Toàn bộ mái của đền được lớp hai lớp ngói lót. Các cột giữa nhà và chân đá tảng đặt một tấm chì dày 1,5mm để chống ẩm từ dưới lên. Nền sân được lát gạch có kích thước 30x30x4cm. Xung quanh đều được bó vỉa bằng đá xanh. Quy mô của khu Thái Học mới hiện nay rất bề thế, trang nghiêm và hài hòa với kiến trúc chung của Văn Miếu. Hiện có rất nhiều những cổ vật con đang được lưu giữ tại văn bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm 1442Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ là một địa điểm du lịch mà còn là một nơi để rất nhiều người dân Việt Nam tìm hiểu về cội nguồn, nhớ ơn các bậc hiền tài trong lịch sử đã tạo nên một phần đất nước hiện nay. Hãy một lần đến với Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiểu rõ hơn về biểu tượng của tinh hoa giáo dục, nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam các bạn nhé!Tác giả Trần Thị Như Quỳnh*Bài viết tham gia chương trình Traveloka GolocalTraveloka Golocal là chương trình viết blog giới thiệu những địa điểm đẹp trên khắp đất nước Việt Nam, thuộc khuôn khổ chương trình Traveloka Go & Share. Đây là cơ hội tuyệt vời để quảng bá du lịch địa phương đến mọi người. Với mỗi bài viết đạt yêu cầu bạn sẽ nhận ngay VND và cơ hội làm Cộng tác viên với Traveloka. Thông tin chi tiết về chương trình xem tại
nhà lý xây dựng văn miếu quốc tử giám để