Ngoài ra, CPA Việt Nam cũng đang dần khẳng định được vị thế trong khối ASEAN và tại Úc. Chứng chỉ CPA Việt Nam hiện nay đang được công nhận từng phần tại Úc. Cụ thể là người sở hữu CPA Việt Nam sẽ được miễn 3/12 môn thi CPA Úc. 4. Lệ phí tham gia kỳ thi Ở hạng mục Sách Giáo dục, giải năm nay thuộc về 2 tựa sách. Đó là tác phẩm G iáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản (tác giả Nguyễn Quốc Vương) và dịch phẩm Biện hộ cho một nền Giáo dục Khai phóng(tác giả Fareed Zakaria, dịch giả Châu Văn Thuận). Sách Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản (Nhà xuất bản Phụ Nữ ) xuất bản vào năm 2017. A. Đưa Liên Xô tiến lên chủ nghĩa cộng sản; B. Đưa Liên Xô trở thành cường quốc số 1 của thế giới; C. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, thực hiện thâm canh trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh tiến bộ khoa học - kĩ thuật và tăng cường sức mạnh quốc phòng của Nếu như Việt Nam khai giảng năm học mới vào tháng 9, thì Nhật Bản lại chọn tháng 4. Ngày tựu trường ở Nhật cũng chính là ngày đầu mùa hoa anh đào nở rộ. Một năm học ở Nhật Bản gồm 3 học kỳ thay vì 2 kỳ như ở Việt Nam. Bên cạnh đó, học sinh Nhật Bản được nghỉ hè tới 6 tuần, thậm chí còn có hai tuần nghỉ đông. 10. Hơn 20 năm phát triển đến nay, phần mềm từ điển Lạc Việt đang là phần mềm từ điển được sử dụng nhiều nhất tại Việt Nam (theo ghi nhận của Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam và Cục sở hữu trí tuệ năm 2012). Trung tâm Du học Nhật Bản Yoko là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam áp dụng chương trình MIỄN PHÍ TOÀN BỘ chi phí TƯ VẤN và chi phí XỬ LÝ HỒ SƠ trị giá hơn 1000$ cho tất cả các học viên tham gia Du học Nhật Bản. TỶ LỆ ĐỖ VISA CAO NHẤT Còn các món đồ có xuất xứ từ Mỹ hoặc Nhật lại sử dụng điện áp 100V-110V và để sử dụng được tại Việt Nam bạn sẽ phải cần tới bộ chuyển điện áp từ 220V xuống 110V. 50Hz cho Nhật. Việt Nam dùng điện 220V do cơ sở hạ tầng đã xây dựng phù hợp với điện 8igcLai. Cuốn sách của tác giả Nguyễn Quốc Vương Giảng viên khoa Lịch sử - Đại học Sư phạm Hà Nội, Nghiên cứu sinh ngành giáo dục lịch sử tại Đại học Kanazawa Nhật Bản ra đời đúng dịp tròn 10 năm anh đến Nhật và tiếp xúc với giáo dục Nhật. Những chiêm nghiệm của tác giả về giáo dục đặc biệt là giáo dục lịch sử ở hai nước Nhật Bản và Việt Nam từ trường đại học, cuộc sống và những chuyến đi thực tế liên tục tới các trường phổ thông của Nhật Bản thật sự là những thông tin vô cùng giá trị. Cuốn sách “Giáo dục Việt Nam học được gì từ Nhật Bản” do NXB Phụ Nữ phát hành, hiện đã được tái bản lần 2."Học về giáo dục và suy ngẫm về giáo dục nước nhà thật không phải là công việc nhẹ nhàng. Nó giống như là một sự hành xác. Nhưng tôi vẫn muốn tiếp tục nghĩ về nó" - Nguyễn Quốc VươngCuốn sách Giáo dục Việt Nam học được gì từ Nhật Bản gồm hai phầnPhần 1 Giáo dục Việt Nam và giáo dục Nhật Bản, sách giáo khoa, cơ chế sách giáo khoa quốc định - kiểm định, triết lý giáo dục….Phần 2 Bàn sâu hơn về giáo dục lịch sử với những vấn đề triết lý giáo dục lịch sử là gì, học sinh Việt Nam tại sao chán học môn Lịch sử, học sinh Nhật Bản học lịch sử như thế nào, đâu là lối thoát cho giáo dục lịch sử Việt Nam hiện phần 1 của cuốn sách, tác giả đã nêu lên những vấn đề hết sức nóng hổi và đưa ra những đánh giá xác đáng về giáo dục Việt Nam và Nhật Bản. Chỉ cần đọc những tiêu đề bài viết, người đọc đã có thể cảm nhận ngay được sự hấp dẫn về nội dung- Khi người thầy nhầm lẫn “quyền lực” và “quyền uy”- Tại sao không phải là “con đại gia đỗ thủ khoa”?- Sử dụng chuyên gia nước ngoài – Yếu tố tạo ra thành công của cải cách giáo dục Nhật Bản-Du học Nhật Bản Không có chỗ cho người mơ mộng,-Từ chuyện tổ chim ngẫm về giáo dục.....Tác giả Nguyễn Quốc Vương. Ảnh Nam Trần/ quan sát của tác giả, trong chương trình giáo dục trường học ở Nhật thường bao gồm ba yếu tố các môn giáo khoa - đạo đức, hoạt động đặc biệt hoạt động câu lạc bộ, hoạt động tự trị, nghi lễ trường học, thời gian hoạt động tổng hợp khoảng thời gian học tập tạo cơ hội cho học sinh học các vấn đề tổng hợp, những vấn đề xã hội hiện tại đang đối mặt. Do đó trong chương trình học, học sinh từ tiểu học sẽ có cơ hội tìm hiểu, thảo luận rất nhiều vấn đề nóng bỏng của đời sống như sửa đổi hiến pháp, ô nhiễm môi trường, tăng hay giảm thuế tiêu dùng, chế độ tư pháp cho phép người dân thường tham gia xét xử tại tòa án chế độ saibanin...Đặc biệt, ở phần phụ lục của sách có Luật Giáo dục cơ bản Quốc hội Nhật ban hành lần đầu năm 1947 và sửa đổi 2006, Thực tiễn giáo dục hoà bình thông qua phong trào Lập hồ sơ về trận không kích Fukuyawa ở thành phố Fukuyawa, tỉnh Hiroshima để giúp người đọc có thêm cái nhìn đa chiều về giáo dục Nhật bài viết của tác giả rất khách quan, không quá "cuồng Nhật" khi có khen, có chê rõ ràng, anh chia sẻ “Với tôi học Nhật cũng tốt, học Phần Lan cũng hay. Nghiên cứu Lào, Campuchia … càng cần thiết. Một nền giáo dục hiện đại là nền giáo dục chấp nhận nhiều trường phái, nhiều ý tưởng, nhiều mô hình. Ở Nhật cho dù có những tính chất “Á đông” cố hữu, sự đa dạng này vẫn tồn tại. Chẳng hạn hệ thống trường tư khá mạnh. Đấy là một truyền thống có tính lịch sử của Nhật Bản. Truyền thống này có đóng góp khá lớn vào sự thành công của giáo dục Nhật. Chuyện dạy – học Sử ở Việt NamNhững lí giải của tác giả về việc học sinh Việt chán học Sử là do Thiếu hụt triết lí giáo dục lịch sử, tư duy trả lời cho câu hỏi “học lịch sử để làm gì”, “độc quyền chân lý” của chương trình và sách giáo khao, sự bế tắc và nhầm lẫn của “đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, sai lầm trong kiểm tra và đánh giá."Việt Nam thiếu các công trình sử học có giá trị làm nền tảng cho giáo dục lịch sử kiểu Nghiên cứu xã hội. Chẳng hạn, muốn thiết kế, thực hiện giáo dục lịch sử theo chủ đề hay chuyên đề, giáo viên phải căn cứ vào công trình chuyên khảo đáng tin cậy. “ Lịch sử theo chủ đề” thường chú trọng lịch sử xã hội, mà trước hết là lịch sử “ăn”, “mặc”, “ở”, “đi lại” của các cộng đồng. Nhưng thử hỏi hiện tại có bao nhiêu công trình sử học thực sự về các vấn đề này trên đất nước ta?"Học Sử để làm gì?– một câu hỏi vô cùng quan trọng nhưng nó cũng là câu hỏi mà ít có giáo viên và cuốn sách giáo khoa nào làm hài lòng học sinh. Ảnh vietnamnetTuy viết về những vấn đề tưởng chừng như khô khan như giáo dục, lịch sử, thế nhưng bằng ngòi bút chỉn chu, tư duy sắc bén của một người "không thể ngừng nghĩ về giáo dục", tác giả Nguyễn Quốc Vương đã thật sự giúp cho người đọc hiểu hơn về nhiều vấn đề về tư duy, cách quản lí giáo dục và có cái nhìn đa chiều hơn về lịch sử, giáo dục Nhật Bản Việt trích một đoạn khá hay trong sách thay cho lời kết“Học sinh không chọn môn Sử, thầy/ cô có buồn không?” – Chúng tôi đáp Không!”Thậm chí là ngược lại. Tuổi trẻ thông minh và nhạy cảm hơn người lớn tưởng. Giữa chán học môn Sử trong trường và quan tâm tới lịch sử, có ý thức lịch sử mạnh mẽ hay không lại là chuyện khác. … Và nữa, biết đâu nếu như 100% học sinh cả nước không chọn môn Sử làm môn thi tốt nghiệp, môn Sử sẽ lại hồi sinh. " 'Tôi là giáo viên hướng dẫn, đưa ra ý tưởng, tìm kinh phí... Tên bài báo, nội dung, tính mới của cả hai bài là khác nhau', Bùi Xuân Thành khẳng định. Bùi Xuân Thành giới thiệu một thành quả nghiên cứu tại phòng thí nghiệm - Ảnh TRẦN HUỲNHTạp chí Journal of Environmental Management thuộc Nhà xuất bản Elsevier vừa thông báo gỡ bỏ retracted bài báo quốc tế xuất bản năm 2018 của nhóm tác giả từ Việt Nam và Hàn Quốc do sao chép một công trình đã công bố trước đó hơn 2 năm trên tạp chí Bioresource tác giả gồm 7 ngườiTác giả liên hệ corresponding author của bài báo bị rút bỏ là Bùi Xuân Thành - trưởng bộ môn khoa học và công nghệ nước, khoa môi trường và tài nguyên Trường ĐH Bách khoa ĐH Quốc gia Ông Thành hiện là thư ký Hội đồng khoa học nghiên cứu ứng dụng - lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ của báo bị gỡ bỏ được xuất bản trên số đặc biệt special issue công bố các báo cáo trình bày trong Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về hóa phân tích môi trường ISEAC 5 - Asia diễn ra vào tháng 5-2017 tại Ông Bùi Xuân Thành là đồng chủ tịch co-chair hội đồng khoa học của ISEAC 5 - Asia, đồng thời là một trong các biên tập viên khách mời guest editor phụ trách số đặc biệt này. Theo thông báo từ tạp chí Journal of Environmental Management, bài báo bị gỡ bỏ được xuất bản hồi tháng 8-2018 của nhóm tác giả gồm bảy tác giả bài báo trên, theo thứ tự đứng tên trong bài báo, gồm 1. Võ Hoàng Nhật Phong, Trường ĐH Tôn Đức Thắng nghiên cứu sinh tại ĐH Công nghệ Sydney, Úc vào thời điểm đăng bài; 2. Bùi Xuân Thành, Trường ĐH Bách khoa ĐH Quốc gia 3. Nguyễn Thanh Tín, Trường ĐH Duy Tân nghiên cứu sinh tại Viện Khoa học và Công nghệ Gwangju, Hàn Quốc vào thời điểm đăng bài; 4. Nguyễn Đình Đức, Đại học Kyonggi, Hàn Quốc; Đào Thanh Sơn, Trường ĐH Bách khoa ĐH Quốc gia 6. Cao Ngọc Đan Thanh, Trường ĐH Duy Tân nghiên cứu sinh tại ĐH Công nghệ quốc gia Đài Loan, Đài Loan vào thời điểm đăng bài; 7. Võ Thị Kim Quyên, Trường ĐH Duy Tân nghiên cứu sinh tại ĐH Myongji, Hàn Quốc vào thời điểm đăng bài.Hai tác giả Nguyễn Thanh Tín và Bùi Xuân Thành cũng đứng tên cùng với ba tác giả khác bài báo trên tạp chí Bioresource Technology có nội dung giống bài báo bị Journal of Environmental Management gỡ giả bài báo quốc tế bị gỡ nói gì?Sáng 8-6, trao đổi với Tuổi Trẻ về sự việc trên, ông Bùi Xuân Thành cho biết hai bài báo nêu trên cùng là nghiên cứu về vi tảo và đều là kết quả nhóm nghiên cứu của ông thực hiện từ năm 2014 đến nay. "Tôi là giáo viên hướng dẫn, đưa ra ý tưởng, tìm kinh phí... Tên bài báo, nội dung, tính mới của cả hai bài là khác nhau" - ông Thành khẳng trùng lặp một phần trong hai bài báo là do hình mô tả bể phản ứng, một số dữ liệu trong thí nghiệm. Những dữ liệu này sử dụng cùng một hệ bể phản ứng và các điều kiện thí nghiệm. Các dữ liệu này là cần thiết cho cả hai bài báo. Ngoài ra, trong bài báo thứ 2 bị rút lại - PV, phần nội dung thảo luận cho kết quả nghiên cứu và các tài liệu tham khảo là rất khác so với bài trước đã đăng. Hệ thống kiểm tra độ trùng lặp kết quả cũng cho thấy mức độ trùng lặp xấp xỉ 2%.Theo ông Thành, tháng 3-2019 đã từng có email của ông Berrin Tansel - tổng biên tập EIC cũ của tạp chí Journal of Environmental Management - yêu cầu làm rõ về vấn đề này. Sau khi tổng biên tập yêu cầu, ông Thành đã phản hồi cho EIC vào ngày 15-3-2019. Sau phản hồi, tạp chí không có ý kiến gì thêm và bài báo vẫn giữ trên tạp chí. Đến tháng 12-2022, ông Raf Dewil - tổng biên tập mới của tạp chí - hỏi lại nội dung nghiên cứu giải trình vào năm 2019 như đã nêu trên. Do vậy, ông Thành phải gửi email phản hồi vào ngày 12-12-2022 tới ông tổng biên tập mới."Khi phản hồi lần sau, tôi vẫn khẳng định đây là kết quả nghiên cứu của nhóm, không đạo văn. Việc tôi dùng lại một phần kết quả nghiên cứu trước đó của mình để biện luận cho kết quả mới có thể được cho là phạm lỗi. Có thể quan điểm của tổng biên tập mới khác người tiền nhiệm nên họ retracted bài báo. Tôi là tác giả chính của bài báo, là người hoàn toàn chịu trách nhiệm, không đổ lỗi cho ai" - ông Thành nói. Lạm dụng hệ thống xuất bản khoa học "Một trong những điều kiện khi nộp một bài báo để xuất bản là các tác giả phải tuyên bố rõ ràng rằng bài báo đó chưa từng được xuất bản trước đây và không ở trạng thái đang được xem xét để xuất bản ở nơi khác. Như vậy, bài báo này thể hiện sự lạm dụng hệ thống xuất bản khoa học. Cộng đồng khoa học giữ quan điểm rất nghiêm khắc về vấn đề này và gửi lời xin lỗi tới độc giả của tạp chí rằng điều này đã không được phát hiện trong quá trình các tác giả gửi bài" - thông báo của Journal of Environmental Management nêu rõ. Có thừa kế kết quả nghiên cứu trước đó Liên quan đến thông tin cho rằng công trình nghiên cứu bị gỡ bỏ nêu trên được Nafosted tài trợ, ông Bùi Xuân Thành khẳng định Cả hai bài báo nêu trên bài bị rút lại và bài trên tạp chí Bioresource Technology - PV không chính thức là sản phẩm được tài trợ bởi quỹ Nafosted và cả hai bài chưa từng được sử dụng nghiệm thu đề tài nào của quỹ. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu kế thừa kết quả nghiên cứu nền tảng từ các đề tài trước, đồng thời tự đầu tư mở rộng thêm các hướng nghiên cứu khác và nhờ đó nhóm có thêm kết quả nghiên cứu mới thể hiện qua các bài báo công bố. Do đó, nhóm đã ghi lời cảm ơn quỹ trong bài báo nhưng không ghi mã số đề tài và như vậy hoàn toàn không thể dùng để nghiệm thu. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao Đã từ lâu Nhật Bản là một tấm gương sáng để Việt Nam có thể học hỏi và noi thể nói, Việt Nam là một dân tộc có mối thiện cảm rất tốt đẹp với người NhậtBản không phải chỉ có từ những năm hội nhập hiện nay, mà hơn hết xứ sở hoa anhđào còn là “tượng đài” giúp nhiều người Việt có thể nhìn đó và làm bối cảnh hiện nay, khi mà đất nước gặp nhiều khó khăn chúng ta buộc phảicó những thay đổi căn bản và quyết liệt và tấm gương từ người Nhật chính là hìnhảnh phản chiếu tích cực mà đất nước ta cần phải nhìn theo và học hỏi. Bởi có thểnói rằng những bài học từ Nhật Bản là một việc giúp chúng ta có cái nhìn thực tiễnđể bắt đầu cho sự đổi mới sâu sắc, toàn diện. Vậy chúng ta học được gì từ ngườiNhật, hãy theo dõi ngay bài viết sau đây và nhanh chóng giải đap thắc mắc từ nhanđề trên nhé!Học tính quyết liệtNgười Nhật có những đặc tính mà một dân tộc muốn phát triển không thể khôngmong muốn có những thứ đó và tính quyết liệt là một trong số những ưu điểm màbài viết này muốn đề cập đến đầu thể nói, lịch sử hiện đại hoá nền chính trị, nền kinh tế và nền văn hóa Nhật Bảnđược tiến hành gần như song song hoặc nếu có chậm thì chỉ chậm hơn một chút sovới việc thống nhất nước Mỹ. Thế nhưng bằng sự quyết liệt của mình trong nhữngcuộc cải cách sáng suốt Nhật Bản nhanh chóng vươn lên thành một cường quốccủa thế từ những bài học dám suy nghĩ, dám thay đổi đã là một minh chứng cho thấytính quyết liệt có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển củamột quốc gia. trị. Cho nên, học người Nhật trước hết là học tính quyết liệt trong cảicách từ chính trị đến những quyết đoán, sự dũng cảm của người Nhật trong cách nề nếpNhắc đến nước Nhật chúng ta sẽ dễ dàng nghĩ ngay đến nhũng quy chuẩn khuônmẫu khó có một đất nước nào có được, người Nhật luôn tuân thủ nguyên tắc đề ravà tạo nó thành những thói quen tốt cho bản thân với người Nhật nề nếp chính là yếu tố hàng đầu tạo điều kiện xúc tiến thànhcông dù lĩnh vực mà họ đang thực hiện là gì đi chăng nữa. Thế nên, với nhiều quốcgia trên thế giới đức tính này của người Nhật là một bài học quý giá mà họ cầnphải học sự tôn trọngVề cơ bản, sự tôn trọng luôn được nằm ở phạm vi có ý nghĩa quyết định đến việcdùng người, thế nên thật không khó để thấy rằng đất nước Nhật ngày càng pháttriển mạnh mẽ với các chính sách sử dụng nhân tài tốt và sự tôn trọng chính là yếutố có khả năng quyết định đến những thành công đó. Thế nên, cùng với nhiều nướckhác đây cũng được xem là một bài học mà Việt Nam cũng đã và đang học tập nét kiên nhẫnChúng ta đều biết rằng, sau chiến tranh thế giới thứ hai mkhi phải đối mặt với sự“nhục nhã” của một nước thua trận, vừa bị tàn phá nặng nề, Nhật Bản có nỗi đaukhó ai có thể hình dung được. Nhưng có thể nói rằng Nhật Bản là một dân tộc kỳlạ, họ có thể bỏ nỗi đau của kẻ thua trận và thừa nhận những sai lầm của mình,người Nhật dồn toàn tâm toàn ý xây dựng lại đất nước của mình từ sau thế chiếnthứ hai. Đây là một trong những đức tính mà mọi người đều tỏ rõ ngưỡng mộ khinhắc về nước Nhật và những thành tựu của đất nước ta chưa thể nói chuyện học kỹ năng, vì vậy chúng ta phải học cách hun đúcý chí, hun đúc s vươn lên của con người. Chúng ta cần học hỏi những bí quyết,những bài học mà các quốc gia phát triển đi trước đã làm và Nhật Bản chính là mộttấm gương mà chúng ta có thể học hỏi và noi theo. Và nhất là việc tăng cường xâydựng mối quan hệ tốt với Nhật Bản chính là một trong những yếu tố giúp chúng tacân bằng với các quan hệ quốc tế quan trọng và khó khăn khác trong khu vực. Với mỗi người con Việt Nam xa xứ, hình ảnh phiên chợ quê dễ dàng chạm đến cảm xúc và khơi dậy những ký ức tươi đẹp, yên bình và đậm chất quê hương. Ở đó, có không khí gần gũi mang hơi thở quen thuộc của làng quê Việt đó có các bà, các mẹ, hàng xóm láng giềng bày bán hàng quán, có tiếng cười nói rộn ràng. Ở đó có những món ăn tuổi thơ đã đi vào tiềm thức bao thế hệ người Việt. Những phiên chợ quê hiếm hoi tại Nhật Bản không chỉ mang đến không gian văn hóa đa màu sắc mà còn trở thành món ăn tinh thần giá trị của cộng đồng Việt kiều đang sinh sống và học tập tại cảnh không gian Chợ quê Việt tại Fukuoka. Chợ quê đã diễn ra từ 10h-16h, ngày 10/6 tại Học viện Nhật ngữ GAG – thuộc thành phố Fukuoka. Công tác chuẩn bị cho hoạt động này đã được Hội người Việt Nam tại Fukuoka và Hội phụ nữ Việt Nam tại Kyushu và Học viện Nhật ngữ GAG phối hợp cùng triển khai trong không khí khẩn trương, hiệu quả và vui vẻ. Sự kiện này được Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Fukuoka là đơn vị bảo trợ và tạo điều kiện tổ chương trình Chợ quê Việt tại Ban tổ chức, chương trình sẽ được tổ chức định kì hàng tháng. Tại phiên chợ quê tháng 6 đã diễn ra nhiều hoạt động hấp dẫn như Khu ẩm thực với những món ăn truyền thống đa dạng; Khu giáo dục và kinh tế là nơi trao đổi, tư vấn những vấn đề học tập, lao động việc làm thêm, visa, lập công ty....Tại phiên chợ, còn diễn ra hoạt động ý nghĩa và nhân văn, đó là Chợ Trời – Flea Market, nơi cho/tặng những món đồ còn tốt cho người thực sự cần chúng. Ngoài ra, các công ty tham gia phiên chợ còn có cơ hội giới thiệu doanh nghiệp, quảng bá sản phẩm đến với khách hàng Việt kiều và nhân dân bản biệt, hưởng ứng chiến dịch giáo dục tiếng Việt và văn hóa Việt cho trẻ em thế hệ thứ 2, thứ 3 tại Nhật Bản, đến với phiên chợ, các em nhỏ có cơ hội tham gia vào Open day – Tiếng Việt Cho Em, trải nghiệm không gian học tập thú vị và bổ gian hàng ẩm thực, giới thiệu sản phẩm Việt người Việt Nam tại Fukuoka cho biết, Ban tổ chức sẽ duy trì hoạt động này và tổ chức mỗi tháng một lần, để nơi đây trở thành điểm hẹn văn hóa hấp dẫn, cầu nối gắn kết cộng đồng người Việt, chung tay lan tỏa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, xây dựng tình hữu nghị giữa nhân dân hai quốc gia Việt Nam – Nhật khách được trải nghiệm trà đá vỉa hè ngay tại Nhật quê Việt Nam tại Fukuoka đã thu hút gần 500 người Việt Nam và Nhật Bản tham dự và trải nghiệm. Là người chỉ đạo tổ chức và dành nhiều tâm huyết cho chương trình chợ quê, ông Nguyễn Duy Anh – Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Fukuoka, Hiệu trưởng Học viện Nhật ngữ GAG khẳng định “Chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực hết sức mình, cống hiến cho công tác quảng bá văn hóa Việt Nam, chung tay phát triển cộng đồng Việt kiều ngày càng lớn mạnh và phát triển”.Ông Nguyễn Duy Anh, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Fukuoka trái tại sự Chi Là một người quan tâm đến giáo dục và mong muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, trong thời gian du học tại Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương đã tìm tòi nghiên cứu và có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu có tính phản biện và đưa ra các phân tích mang tích độc lập về các vấn đề nóng của giáo dục Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy hầu hết các vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện nay còn đang tranh cãi thì ở Nhật đã gặp phải, cũng như đã giải quyết được cách đây hơn 70 năm. Và để có được một xã hội Nhật Bản thịnh vượng như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua công cuộc cải cách giáo dục một cách toàn diện, thậm chí chấp nhận xóa bỏ toàn bộ nền giáo dục trước đó. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản đã đổi mới thành công bởi các nhà quản lý giáo dục Nhật Bản Chú trọng “cải cách giáo dục từ dưới lên”; coi Chương trình chỉ là tham khảo; Các môn học và phương pháp kiểm tra, đánh giá mới hoàn toàn mới so với trước. “ Sau khi chính quyền Minh Trị được thiết lập năm 1868, trong vòng 10 năm đầu, quá trình cận đại hóa theo hướng “khai hóa văn minh” được xúc tiến mạnh mẽ. Cải cách giáo dục đã đi từ các thay đổi lẻ tẻ ở địa phương trở thành chính sách quốc gia. Phương châm của chính phủ Minh Trị lúc đó là đẩy mạnh cải cách giáo dục để cận đại hóa đất nước, du nhập nhanh và rộng các giá trị văn minh phương Tây. Để “nhập khẩu” văn minh, chính phủ Minh Trị đã cử học sinh ra nước ngoài du học và tích cực sử dụng người phương Tây trong vai trò là các chuyên gia, cố vấn.” “Ở Nhật Bản trước Chiến tranh thế giới thứ hai, “triết lý giáo dục” không được coi trọng hay nói khác đi là không được ý thức đầy đủ. Nền giáo dục khi ấy được vận hành chủ yếu bởi các nguyên lý bất biến được xác định bởi “Học chế” và “Sắc chỉ giáo dục” do Thiên hoàng Minh Trị ban hành. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dựa trên nền tảng của Hiến pháp 1946, triết lý giáo dục mới được xây dựng. Triết lý này được ghi rõ trong các bộ Luật về giáo dục như Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục nhà trường, Luật về Ủy ban giáo dục…Trong các bản Hướng dẫn học tập phần đầu tiên bao giờ cũng là phần trích dẫn những nội dung quan trọng nhất của Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học và Quy tắc thực thi Luật giáo dục trường học. Ở đó, triết lý giáo dục được trang trọng đặt ở chương đầu tiên “Mục đích và triết lý giáo dục”. Triết lý giáo dục mới này được thể hiện tập trung ở mục tiêu giáo dục nên người công dân có đầy đủ tri thức, phẩm chất, năng lực phù hợp với xã hội dân chủ, hòa bình, tôn trọng con người.” Từ việc so sánh về giáo dục Việt Nam và Nhật Bản, tác giá đưa ra kết luận Ở Việt Nam cho đến nay “triết lý giáo dục” vẫn là một thuật ngữ chuyên môn tương đối mới và xa lạ. Trong các văn bản quản lý giáo dục và thậm chí trong Hiến pháp, Luật giáo dục cũng không hề thấy xuất hiện thuật ngữ này mặc dù đối với một nền giáo dục “Triết lý giáo dục” là vô cùng quan trọng. Vì vậy, về lâu dài muốn xây dựng được nền giáo dục dân tộc, hiện đại và hội nhập quốc tế thì chắc chắn vấn đề “triết lý giáo dục” cần phải được giải quyết thấu đáo. Giáo dục Việt Nam cần đến một triết lý thu nhận được sự đồng thuận của đông đảo nhân dân và phù hợp với những giá trị phổ quát của nhân loại. Một khi có triết lý giáo dục rõ ràng, cải cách giáo dục sẽ diễn ra thuận lợi tạo nên những thay đổi tích cực. Tác giả khẳng định, nếu không có một Triết lý giáo dục rõ ràng thì dù có nhập khẩu các chương trình giáo dục nổi tiếng, đã thành công trên thế giới, hay việc tìm tới những phương pháp giảng dạy tối ưu càng khiến giáo dục Việt Nam rơi vào tình trạng rối như bế tắc và có những biến tướng khó có thể chấp LỤCPHẦN DỤC VIỆT NAM VÀ GIÁO DỤC NHẬT BẢN1. Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?2. Cải cách giáo dục từ dưới lên 3. “Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông như bài thơ viết vội4. Một chương trình-nhiều bộ sách giáo khoa Những điều kiện đủ5. Ý nghĩa của cơ chế “một chương trình, nhiều sách giáo khoa”6. Khi người thầy nhầm lẫn “quyền lực” với “quyền uy”7. Lớp trưởng là chủ tịch Đừng “chế Mercedes thành công nông”! 8. Tại sao không dạy nghề mà chỉ là “định hướng nghề nghiệp”?9. Tại sao không phải là con đại gia đỗ thủ khoa’?10. Chỉ vì chữ “tác” thành chữ “tộ”11. Nhật Bản cải cách giáo dục như thế nào?12. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản-bước ngoặt về tư duy giáo dục13. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản được tạo ra như thế nào?14. Yếu tố tạo ra thành công của cải cách giáo dục Nhật Bản15. Đánh giá học sinh ở Nhật khác gì ở Việt Nam?16. Du học Nhật Bản không có chỗ cho người mơ mộng17. Sau 1945, học sinh Nhật Bản đã học những “kĩ năng sống” nào?18. Từ chuyện tổ chim ngẫm về giáo dục Tính “địa phương” trong giáo dục phổ thông – một bài học sâu PHẦN DỤC LỊCH SỬ Ở VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN1. Hướng đi nào cho giáo dục lịch sử ở Việt Nam?2. "Đơn thuốc nào cho căn bệnh “giáo dục lịch sử”3. Đối thoại hậu bài viết “Đơn thuốc cho giáo dục lịch sử”4. Học tập nước ngoài, nhưng cẩn thận mắc bệnh hình thức’5. Khi học sinh không chọn môn Sử thi tốt nghiệp phổ thông trung học6. Khám phá, giải mã quá khứ qua lịch sử7. Môn Sử biến mất’ và thách thức chưa từng có của Bộ Giáo dục8. Lịch sử phải là môn “khoa học” trước khi thành môn “bắt buộc”9. Dạy học tích hợp có mâu thuẫn với sự độc lập của môn Lịch Sử?10. Thư một học sinh gửi người lớn Không chọn thi môn Sử có gì là sai?11. Thử phát triển “nhận thức lịch sử khoa học” và “phẩm chất công dân” cho học sinh lớp 8 qua thực tiễn dạy học lịch sử ở Trường THCS và THPT Nguyễn Tất Cải cách giáo dục lịch sử trong trường phổ thông Nhật Bản thời hậu chiến 1945-1950 và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam13. Tìm hiểu về ba hình thái giáo dục lịch sử trong trường phổ thông Nhật Bản từ sau 194514. Sách giáo khoa lịch sử Nhật Bản Nơi học sinh lớp 6 có thể là nhà sử học Tác giả Nguyễn Quốc Vương đã từng làm giảng viên Khoa Lịch sử - Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Làm nghiên cứu sinh tại Nhật Bản, anh tâm huyết với các vấn đề giáo dục của nước nhà và có nhiều bài viết, dịch về các vấn đề liên quan đến giáo dục, cải cách giáo dục và so sánh giáo dục Việt Nam và Nhật Bản. Hiện nay anh là nhà nhà phê bình tự do và tập trung cho các hoạt động khuyến đọc. Tác phẩm đã xuất bản Các tác phẩm đã dịch 1. Cải cách giáo dục Nhật Bản - Ozaki Mugen, NXB Từ điển Bách Khoa và Thaihabooks, 20142. Sổ tay giáo dục gia đình Nhật Bản, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản, NXB Phụ nữ và Công ty cổ phần Sách Truyền thông Quảng Văn, 20163. Hướng dẫn học tập môn xã hội, tập 1, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học Công nghệ Nhật Bản, NXB Đại học Sư Phạm, 20164. Hướng dẫn học tập môn xã hội, tập 2, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học Công nghệ Nhật Bản, NXB Đại học Sư Phạm, 2017Tác phẩm sáng tác1. Điều bí mật trong vườn thơ, NXB Văn học, 2015. 2. Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản, NXB Phụ nữ, 20163. Môn Sử không chán như em tưởng, NXB Phụ nữ, 20174. Mùi của cố hương, NXB Phụ nữ, 20175. Đi tìm triết lý giáo dụcNhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới một số bài viết trong sách “70 năm sau ngày độc lập Việt Nam lại đứng trước những thử thách và lựa chọn quan trọng trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ tư. Hơn lúc nào hết giáo dục đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của người dân cả nước. Ở đó, người dân đủ mọi thành phần thông qua truyền thông đại chúng, mạng xã hội và các diễn đàn khác, đang hàng ngày thể hiện sự lo lắng trước hiện trạng giáo dục và kỳ vọng vào cải cách. Nỗi lo lắng và niềm hy vọng ấy của người dân là dễ hiểu. Đơn giản vì giáo dục có tác động trực tiếp đến mọi gia đình trong xã hội và quyết định đến sự hưng vong của dân tộc. Cải cách thực sự và triệt để là phương thức hữu hiệu để giải quyết các vấn đề đang ngày một trở nên trầm trọng trong nền giáo dục của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, để đi tới thành công cải cách giáo dục phải đáp ứng được nguyện vọng của người dân và phù hợp với xu hướng chung của giáo dục thế giới trong thời đại toàn cầu hóa. Vì thế, trong quá trình thiết kế và thực thi cải cách giáo dục, sẽ có hai công việc cần phải được tiến hành Thứ nhất là xem xét lại toàn bộ nền giáo dục từ trước đến nay để phân tích, tìm ra những ưu điểm cần lưu giữ, phát triển và những vấn đề cần phải giải quyết. Thứ hai là nghiên cứu giáo dục thế giới, đặc biệt là giáo dục ở các nước tiên tiến để tham khảo, học hỏi từ đó xây dựng phương án cải cách phù hợp. Cả hai công việc đó đều cần đến tư duy và thao tác so sánh. Giáo dục Việt Nam chỉ có thể được nhận thức một cách khách quan, toàn diện và sâu sắc khi nó được tham chiếu, so sánh với giáo dục ở các nước khác. Với tư cách là một người làm giáo dục và muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, tôi đã sử dụng tư duy so sánh nói trên để nhận thức về giáo dục Việt Nam. Những bài viết được tập hợp trong cuốn sách có tên “Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?” này là kết quả của việc so sánh giáo dục Việt Nam và Nhật Bản được tôi tiến hành từ năm 2009 đến nay. Hy vọng, thông tin từ các bài viết trong cuốn sách nhỏ này sẽ có ích cho bạn đọc trong quá trình nhận thức về giáo dục và góp phần thúc đẩy cải cách giáo dục ở Việt Nam sớm thành công.” Nguyễn Quốc Vương Trích Lời nói đầu “Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật BảnCải cách giáo dục từ dưới lên Cải cách giáo dục, dưới góc độ lịch sử, có thể được chia làm hai loại cải cách từ trên xuống và cải cách từ dưới lên. Cải cách giáo dục từ trên xuống được hiểu là cuộc cải cách xuất phát từ phía nhà nước - các cơ quan quản lý giáo dục, đứng đầu là Bộ Giáo dục và Đào tạo, thông qua các chính sách và chỉ đạo có tính chất hành chính, bắt buộc. Trái lại, cải cách giáo dục từ dưới lên được tiến hành bởi các giáo viên ở các trường học và bằng các “thực tiễn giáo dục”.“Thực tiễn giáo dục” là gì?Có thể hiểu một cách đơn giản rằng “thực tiễn giáo dục” là tất cả những gì giáo viên thiết kế, tiến hành trong một khoảng thời gian ngắn như một vài tiết học khi thực hiện một chủ đề học tập, trong một học kỳ, một năm học hoặc cũng có thể là cả quãng đời dạy học, và thu được ở hiện trường giáo dục. Các thực tiễn giáo dục là kết quả tự chủ và sáng tạo của giáo viên trên cơ sở nghiên cứu mục tiêu giáo dục, chương trình khung, sách giáo khoa, tình hình thực tế của nhà trường, học sinh. Thực tiễn giáo dục có thể không hoàn toàn trùng khớp hay chỉ là sự minh họa, diễn giải những gì được trình bày trong sách giáo khoa, nó là sản phẩm của sự sáng tạo mang đậm dấu ấn của giáo viên, của ngôi trường họ đang dạy học. Chính vì vậy, thực tiễn giáo dục thường được gọi bằng cái tên gắn liền với ngôi trường hoặc giáo viên sáng tạo ra trò của “thực tiễn giáo dục”Có thể coi thực tiễn giáo dục là một con đường đi giữa những chỉ đạo về nội dung và phương pháp giáo dục của cơ quan hành chính giáo dục và tình hình thực tế trường học nhằm đi đến cái đích là “mục tiêu giáo dục”. Đây là nơi thể hiện tài năng nghề nghiệp của giáo viên. Khi thiết kế và thực thi thực tiễn giáo dục, giáo viên phải xử lý một cách khéo léo nhất mối quan hệ giữa chương trình, sách giáo khoa, mục tiêu giáo dục, yêu cầu thực tế của xã hội, nguyện vọng của phụ huynh, nhu cầu truy tìm chân lý nội tại của học sinh và tình hình thực tế của nhà trường, địa việc thiết kế và thực hiện các thực tiễn giáo dục có tính độc lập tương đối và mang tính sáng tạo cao, các giáo viên sẽ tạo ra sự thay đổi tích cực ở ngay hiện trường giáo dục. Hàng ngàn, hàng vạn thực tiễn giáo dục như vậy khi hợp lại, với hiệu quả cộng hưởng, sẽ làm nên cuộc “cải cách giáo dục từ dưới lên”. Thực tế lịch sử đã chứng minh, các cuộc cải cách giáo dục từ trên xuống cho dù ban đầu có quy mô đến bao nhiêu đi nữa thì về sau nó cũng dần dần nguội lạnh. Vì vậy, các cuộc cải cách giáo dục từ dưới lên với vô vàn các thực tiễn giáo dục vừa có tác dụng thúc đẩy, duy trì vừa có tác dụng điều chỉnh cuộc cải cách giáo dục từ trên xuống. Nói cách khác, trong cuộc cải cách giáo dục, giáo viên sẽ không chỉ đóng vai trò như một người thợ, một người thừa hành thuần túy mà họ, bằng lao động nghề nghiệp giàu tính chủ động, sáng tạo, thấm đẫm tinh thần tự do, sẽ dẫn dắt giáo dục đi đúng hướng và thực hiện mục tiêu giáo phạm vi hẹp hơn, các thực tiễn giáo dục còn tạo cơ hội cho các giáo viên trong trường học và các đồng nghiệp xa gần trao đổi chuyên môn thực sự. Thực tiễn giáo dục được ghi chép, tổng kết lại cũng sẽ là những tư liệu quý phục vụ công tác nghiên cứu.“Thực tiễn giáo dục” được ghi lại như thế nào?Tiến hành các thực tiễn giáo dục là công việc thường xuyên của giáo viên. Đó là sự tìm tòi và sáng tạo không ngừng. Tuy nhiên, công việc của giáo viên không chỉ dừng lại ở việc thiết kế và tiến hành các thực tiễn giáo dục. Giáo viên cần ghi lại, tổng kết các thực tiễn giáo dục của bản thân và công bố chúng. Thông thường, một thực tiễn giáo dục ở quy mô nhỏ thường là một chủ đề học tập với dung lượng từ ba đến bảy tiết học được ghi lại với cấu trúc sau+ Tên “thực tiễn giáo dục” Có thể trùng với tên của chủ đề học tập hoặc tên riêng thể hiện mục tiêu, phương châm giáo dục của giáo viên.+ Thời gian-địa điểm Ghi rõ ràng, chính xác thời gian bắt đầu, kết thúc, địa điểm tiến hành thực tiễn trường, địa phương, lớp.+ Đối tượng Học sinh lớp mấy, số lượng, đặc điểm học sinh.+ “Giáo tài” Tài liệu dùng để giảng dạy và “chuyển hóa” nội dung giáo dục thành nội dung học tập của học sinh.+ Mục tiêu của “thực tiễn” chủ đề học tập Về tri thức hiểu biết, kĩ năng, mối quan tâm, hứng thú, thái độ…+ Kế hoạch chỉ đạo giáo án Bao gồm các chỉ đạo cụ thể của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh.+ Quá trình thực hiện Ghi lại khách quan, trung thực và đầy đủ tối đa về diễn tiến của thực tiễn trong thực tế, chú trọng các phát ngôn và hành động của giáo viên và học sinh.+ Hồ sơ giờ học Tập hợp các cảm tưởng, bài viết, bài kiểm tra, ghi chép của học sinh, sản phẩm của học sinh tạo ra trong thực tiễn…+ Tổng kết thực tiễn Giáo viên tự đánh giá về thực tiễn trong tham chiếu với mục tiêu đặt ra và những điểm cần lưu ý rút ra cho bản thân.+ Phụ lục Tài liệu sử dụng hoặc liên quan đến thực tiễn. Các thực tiễn giáo dục khi đã được “văn bản hóa” như trên có thể được trao đổi thông qua các buổi thuyết trình, thảo luận chuyên môn hoặc công bố trên các tập san, tạp chí. Gần đây, với sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật số, giáo viên có thể ghi lại thực tiễn giáo dục bằng hình hội tiến hành các thực tiễn giáo dục ở Việt NamỞ Việt Nam, do nhiều yếu tố trong đó có sự tồn tại quá lâu của cơ chế “Sách giáo khoa quốc định” một chương trình - một sách giáo khoa, các thực tiễn giáo dục với ý nghĩa như vừa phân tích ở trên gần như không tồn tại. Sự giống nhau từ nội dung, phương pháp đến tài liệu giảng dạy, ngày giờ tiến hành của các bài học trên cả nước là biểu hiện cụ thể cho hiện thực đó. Nhận thức của giáo viên về thực tiễn giáo dục và vai trò chủ động, sáng tạo khi tiến hành các thực tiễn giáo dục cũng là một vấn đề đang được đặt nhiên, bằng việc chấp nhận cơ chế “một chương trình - nhiều sách giáo khoa” trong cuộc cải cách giáo dục đang tiến hành, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên tiến hành các thực tiễn giáo dục. Đây là “cơ hội vàng” cho các giáo viên ở hiện trường giáo dục thực thi và tổng kết các thực tiễn. Các thực tiễn giáo dục sẽ trở thành chủ đề của các buổi sinh hoạt chuyên môn hoặc được công bố trên các tạp chí có liên quan. Các blog cá nhân của giáo viên hay website của các trường phổ thông cũng có thể là nơi công bố các thực tiễn giáo dục. Sự phong phú của các thực tiễn giáo dục sẽ tạo ra sinh khí cho các trường học và đem đến niềm vui cho giáo viên và học sinh. Bằng việc tiến hành hàng ngàn, hàng vạn các thực tiễn giáo dục trên cả nước, cải cách giáo dục từ dưới lên nhất định sẽ thành công, góp phần tạo ra những người công dân mơ ước có tư duy độc lập và tinh thần tự sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng.....

việt nam học được gì từ nhật bản